Friday, May 24, 2013

The Mark of Athena _ Chương 25

Dấu hiệu Athena

Chương 25

Piper


jason

PIPER CÓ MỘT MỤC MỚI trong danh sách top mười Dịp Piper Cảm thấy Không khỏe.

Chiến đấu với con Quái-tôm bằng dao găm và giọng nói mê hoặc? Không hiệu quả. Rồi con quái vật chìm xuống biển và biến mất với ba người bạn của cô, và cô đã bất lực không thể giúp họ.

Sau đó, Annabeth, HLV Hedge và cái bàn Buford tất bật quanh việc sửa chữa mọi thứ để con tàu không bị chìm. Percy, mặc dù cảm thấy choáng váng, vẫn đang tìm kiếm những người bạn mất tích dưới biển. Jason, cũng kiệt sức, nhưng vẫn bay xung quanh các dây treo như Peter Pan tóc vàng hoe, để dập tắt mấy ngọn lửa từ vụ nổ xanh lục thứ hai đã thắp sáng bầu trời ngay phía trên cột buồm.


Wednesday, May 22, 2013

The Mark of Athena _ Chương 24

Dấu hiệu Athena

Chương 24

Leo


Atlantis

APHROS TRÔNG GIỐNG EM TRAI, trừ làn da xanh lam thay vì xanh lá và to con hơn rất, rất nhiều. Ông có cơ bụng và cánh tay hệt Arnold đóng trong Kẻ hủy diệt[1] cùng một cái đầu vuông cục súc. Một thanh gươm chuẩn-Conan[2] đeo ngang lưng. Ngay cả mái tóc ông ta cũng to hơn – một trái cầu lớn đầy mấy sợi tóc xanh-đen xoăn cứng dầy cộm khiến cái sừng càng tôm hùm có vẻ như chết ngập cứ cố bơi bơi để lên được bề mặt.

“Có phải vì thế nên tên ông là Aphros không?” Leo hỏi khi họ qua khỏi hang lướt xuống đường mòn. “Bởi vì kiểu tóc Afro[3] kia ấy?”

Aphros cau mày. “Cậu có ý gì hả?”

Tuesday, May 21, 2013

The Mark of Athena _ Chương 23

Dấu hiệu Athena

Chương 23

Leo


commission_for_flamefireheart_by_jujubajulia-d59ks55

LEO XỨNG ĐÁNG NHẬN MỘT CÁI MŨ LỪA.

Nếu cậu minh mẫn, thì cậu đã chuyển hệ thống dò tìm của tàu từ rađa sang siêu âm ngay khi họ rời cảng Charleston rồi. Đó là thứ mà cậu đã quên. Cậu thiết kế thân tàu để cộng hưởng mỗi giây, truyền sóng qua Màn Sương Mù và cảnh báo Fetus về bất cứ con quái vật nào đang ở gần, nhưng nó chỉ hoạt động ở một chế độ trong cùng thời điểm: trên mặt nước hoặc trên không.

Cậu đã cuống lên vì bọn người La Mã, sau đó là cơn bão, rồi thì Hazel, khiến cậu hoàn toàn quên khuấy mất đi. Bây giờ, con quái vật đang ở ngay bên dưới họ.


The Mark of Athena _ Chương 22

Dấu hiệu Athena

Chương 22

Leo


cover

HỌ ĐỨNG TRONG SÂN TRONG CỦA MỘT KHU NHÀ KHÉP KÍN, như kiểu một tu viện. Những bức tường gạch đỏ được cây leo phủ kín. Những cây mộc lan mọc nứt cả gạch lát. Mặt trời chiếu ánh nắng chói chang và độ ẩm thì khoảng hai trăm phần trăm, thậm chí còn ẩm ướt hơn cả Houston. Từ đâu đó gần đấy, Leo ngửi thấy mùi cá đang rán. Trên đầu, màn mây thấp và xám xịt, vằn vện như lông hổ.

Khoảnh sân lớn cỡ một sân bóng rổ. Một quả bóng đá cũ xì hơi nằm lăn lóc một góc, dưới chân một bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh.

Dọc theo những tòa nhà, các cửa sổ đều mở. Leo có thể thấy thấp thoáng những cử động bên trong, nhưng mọi thứ lại im lặng một cách kì quái. Cậu không thấy dấu hiệu gì của máy điều hòa không khí, có nghĩa là bên

Sunday, May 19, 2013

The Mark of Athena _ Chương 21

The Mark of Athena


Dấu hiệu Athena


Chương 21


Leo


a2



SAU KHI LÙNG SỤC MỘT BẢO TÀNG ĐẦY NHÓC NHỮNG HỒN MA PHE LIÊN MINH, Leo không nghĩ ngày hôm đó có thể tệ hơn được nữa. Cậu đã nhầm.

Họ chẳng tìm thấy gì trong chiếc tàu ngầm thời Nội Chiến hay trong bảo tàng; chỉ có vài du khách già cả, một ông bảo vệ gà gật, và – khi họ cố khám nghiệm mấy hiện vật--cả một tiểu đoàn những anh chàng thây ma phát sáng trong quân phục màu xám.

Còn cái ý tưởng rằng Frank sẽ điều khiển được đám hồn ma? Ờ...cái đó khá là thất bại. Lúc Piper gửi tin nhắn Iris cảnh báo về vụ tấn công của đám người La Mã, họ đã về tàu được nửa đường rồi, đang bị một đám xác chết quân Liên Minh giận dữ rượt khắp phố chính Charleston.

Rồi--ố, mèn ơi!--Leo phải làm một chuyến bay với Chàng Đại Bàng Thân Thiện Frank, để họ có thể đấu với một đám người La Mã. Hẳn là cái tin đồn rằng Leo là người đã nổ súng vào thành phố bé nhỏ của họ đã được lan truyền rộng rãi, bởi vì đám người La Mã kia có vẻ đặc biệt sốt sắng muốn giết cậu.

Nhưng hãy khoan! Vẫn còn nữa! HLV Hedge bắn họ rớt khỏi không trung; Frank đánh rơi cậu (không phải do sơ suất đâu ạ); và họ hạ cánh khẩn cấp xuống đồn Sumter.

Lúc này, trong khi tàu Argo II đang lao băng băng trên những ngọn sóng, Leo phải vận dụng hết kĩ năng của mình chỉ để giữ cho con tàu được nguyên vẹn. Percy và Jason hơi quá giỏi trong việc chế biến những cơn bão khổng lồ.

Một lúc, Annabeth đứng cạnh cậu, gào lên đua với tiếng rít gào của gió: "Percy bảo cậu ấy đã nói chuyện với một Nereid ở bến cảng Charleston!"

"Tốt cho cậu chàng!" Leo gào lên đáp.

"Cô Nereid đó nói bọn mình nên tìm sự trợ giúp chỗ các anh em của Chiron[0]."

"Vậy nghĩa là sao? Các bé Ngựa Nhí Tiệc Tùng à?" Leo chưa gặp đám họ hàng nhân mã điên khùng của Chiron, nhưng cậu đã từng nghe đồn về những trận đấu kiếm Nerf[1], những cuộc thi nốc bia rễ cây[2], và súng phun nước Super Soaker[3] được nạp đầy kem tươi nén.

"Không chắc nữa," Annabeth đáp. "Nhưng mình có tọa độ đây. Cậu có nhập được kinh độ và vĩ độ vào thứ này không?"

"Nếu cậu muốn, mình có thể nhập bản đồ chòm sao và gọi cho cậu một cốc sinh tố. Dĩ nhiên là mình biết nhập kinh độ và vĩ độ rồi!"

Annabeth liến láu đọc dãy số ra. Leo xoay sở cách nào đó mà nhập được dãy số đó vào trong khi cầm bánh lái bằng một tay. Một chấm đỏ hiện ra trên màn hình biểu thị bằng đồng.

"Vị trí đó nằm ở giữa Đại Tây Dương," cậu nói. "Mấy bé Ngựa Nhí Tiệc Tùng này có du thuyền à?"

Annabeth bất lực nhún vai. "Cứ giữ cho con tàu được nguyên vẹn cho tới khi bọn mình đi xa khỏi Charleston hơn nhé. Percy và Jason sẽ cho mấy trận gió tiếp nữa đấy!"

"Giờ chơi vui vẻ nhé!"

Cứ như cả tỉ năm đã trôi qua, nhưng cuối cùng thì biển cũng lặng và gió cũng ngừng.

"Valdez," HLV Hedge gọi, bằng giọng dịu dàng đến đáng ngạc nhiên. "Để ta cầm lái cho. Trò đã cầm lái suốt hai tiếng rồi."

"Hai tiếng ạ?"

"Ừ, đưa bánh lái cho ta nào."

"Huấn luyện viên?"

"Gì thế, nhóc?"

"Em không nhả tay ra được."

Thật sự là thế. Ngón tay của Leo có cảm giác như đã hóa đá vậy. Mắt cậu rát vì nhìn quá lâu về phía chân trời. Đầu gối cậu nhũn như kẹo dẻo. HLV Hedge xoay xở cậy được cậu ra khỏi bánh lái.

Leo nhìn bảng điều khiển một cái cuối cùng, nghe tiếng Festus thì thầm kẽo kẹt báo cáo trạng thái. Leo có cảm giác cậu đã quên một chuyện gì đó. Cậu nhìn chằm chằm mấy nút điều khiển, cố gắng suy nghĩ, nhưng chẳng ích gì. Mắt cậu khó mà tập trung được. "Thầy phải coi chừng bọn quái vật," cậu bảo vị huấn luyện viên. "Và cẩn thận với bộ thăng bằng bị hỏng. Và--"

"Ta xử lí được," HLV Hedge hứa. "Giờ thì, đi đi!"

Leo mệt mỏi gật đầu. Cậu lảo đảo băng qua boong tàu đi về phía các bạn cậu.

Percy và Jason ngồi dựa vào cột buồm, đầu hai người gục xuống vì kiệt sức. Annabeth và Piper đang cố cho họ uống ít nước.

Hazel và Frank đứng ngoài tầm nghe, đang có một cuộc tranh luận với rất nhiều cái vung tay và lắc đầu. Lẽ ra Leo không nên cảm thấy hài lòng vì điều đó, nhưng một phần trong cậu lại có cảm giác ấy. Phần còn lại trong cậu cảm thấy tồi tệ vì cậu thấy hài lòng.

Cuộc tranh luận đột ngột dừng lại khi Hazel nhìn thấy Leo. Mọi người tụ tập lại chỗ cột buồm.

Frank nhíu mày như thể cậu ta đang cố biến thành một con chó bun[4]. "Không có dấu hiệu của sự truy đuổi," cậu nói.

"Hay đất liền." Hazel bổ sung. Trông cô hơi xanh xao, dù Leo không chắc đó là do sự lắc lư của con tàu hay do trận tranh cãi lúc nãy.

Leo quét mắt nhìn về phía chân trời. Không có gì ngoài mặt biển bao vây bốn phía. Điều đó lẽ ra không nên khiến cậu ngạc nhiên mới phải. Cậu đã mất công sức sáu tháng trời để dựng nên một con tàu mà cậu biết là sẽ vượt Đai Tây Dương. Nhưng mãi cho tới tận hôm nay, việc bọn họ dấn thân vào một hành trình tới những vùng đất cổ xưa vẫn chẳng có vẻ gì là chân thực cả. Trước đó, Leo chưa từng ra khỏi nước Mỹ, ngoại trừ một chuyến bay ngắn cưỡi rồng đến Québec. Giờ họ đang ở giữa biển khơi rộng lớn, hoàn toàn cô độc, dong buồm về phía Mare Nostrum, quê hương của tất cả những quái vật đáng sợ và những tên khổng lồ xấu xa. Có thể, đám người La Mã không bám theo họ được thật, nhưng họ cũng không thể nhờ cậy vào sự trợ giúp của Trại Con Lai được.

Leo vỗ vỗ thắt lưng để chắc chắn rằng cái đai dụng cụ của cậu vẫn còn đấy. Rủi thay, làm vậy chỉ khiến cậu nhớ đến cái bánh quy may mắn của Nemesis, được nhét vào một ngăn túi.

Cậu sẽ luôn là kẻ ngoài cuộc. Giọng nói của nữ thần vẫn len lỏi trong đầu cậu. Bánh xe thứ bảy.

Quên bà ta đi, Leo tự nhủ. Tập trung vào những thứ mày có thể sửa chữa.

Cậu quay sang Annabeth. "Cậu đã thấy tấm bản đồ cậu muốn tìm chưa?"

Cô gật đầu, dù trông cô tái nhợt. Leo thắc mắc không biết cô đã nhìn thấy gì ở đồn Sumter mà lại có thể khiến cô bị rung động mạnh đến thế.

"Mình sẽ phải nghiên cứu nó," cô nói, như thể chủ đề này chấm dứt ở đó. "Bọn mình còn cách mấy tọa độ đó bao xa?"

"Đi với tốc độ tối đa thì còn một giờ." Leo đáp. "Có ý tưởng gì về thứ bọn mình đang tìm không?"

"Không." Cô thừa nhận. "Percy?"

Percy ngẩng đầu, cặp mắt xanh của cậu đầy tia máu và díu lại. "Cô Nereid đó nói những người anh em của Chiron ở đó, và họ muốn nghe về khu thủy cung ở Atlanta kia. Mình không biết cô ấy có ý gì, nhưng..." Cậu dừng lại, như thể cậu đã vét hết năng lượng để nói bấy nhiêu. "Cô ấy cũng cảnh báo mình phải cẩn thận. Keto, bà nữ thần ở khu thủy cung: Bà ta là mẹ của các thủy quái. Có thể bà ta bị kẹt ở Atlanta, nhưng bà ta vẫn có thể phái đám con cái của bà ta đuổi theo chúng ta. Những Nereid nói rằng chúng ta nên đề phòng một cuộc tấn công."

"Tuyệt vời," Frank lầm bầm.

Jason cố đứng dậy, chẳng phải một ý hay. Piper túm lấy cậu để cậu khỏi lộn nhào, và cậu trượt xuống trở lại chỗ cột buồm.

"Bọn mình có cho con tàu cất cánh được không?" Cậu hỏi. "Nếu bọn mình có thể bay--"

"Được thế thì còn gì bằng," Leo nói. "Chỉ trừ mỗi chuyện Festus bảo với mình rằng bộ thăng bằng trên không đã bị nghiền thành cám lúc con tàu quẹt vào cầu cảng ở đồn Sumter."

"Lúc đó bọn mình đang khẩn trương mà," Annabeth nói. "Đang cố cứu cậu."

"Và cứu mình là một lý do vô cùng cao cả," Leo đồng ý. "Mình chỉ nói là, sẽ phải mất ít thời gian để sửa nó. Cho tới lúc đó, bọn mình không có bay bổng gì cả."

Percy vươn vai và nhăn mặt. "Với mình thì ổn. Biển cũng tốt."

"Đấy là với anh thôi." Hazel nhìn vầng thái dương buổi chiều đang sắp xuống tới đường chân trời. "Bọn mình phải đi nhanh. Ta đã tiêu thêm một ngày nữa và Nico chỉ còn có ba ngày."

"Bọn mình sẽ làm được mà." Leo hứa. Cậu hy vọng Hazel đã tha thứ cho cậu vì đã không tin tưởng em trai cô (này, với Leo thì đó có vẻ là một sự nghi ngờ hợp lý mà) , nhưng cậu không muốn rạch lại vết thương cũ đó. "Bọn mình có thể đến được Rome trong vòng ba ngày--giả như, em biết đấy, không có chuyện gì đột ngột xảy ra."

Frank cười gằn. Trông cậu ta như thể cậu ta vẫn đang cố thực hiện vụ biến thành chó bun đó. "Có tin gì tốt không?"

"Thật ra thì, có đấy" Leo đáp. "Theo như Festus thông báo, chiếc bàn bay của chúng ta, Buford, đã trở lại an toàn lúc chúng ta còn ở Charleston, vậy là đám đại bàng kia không tóm được cậu chàng. Không may là, anh chàng đã làm mất túi đồ giặt với mấy cái quần của cậu rồi."

"Quỷ tha ma bắt nó chứ!" Frank rống lên, Leo nhận thấy đó có lẽ là một lời văng tục nặng nề đối với cậu ta.

Không nghi ngờ gì là Frank có thể đã chửi thề thêm ít nữa--tuôn ra những trời đất quỷ thần với trời đánh thánh vật--nhưng Percy đã cắt ngang bằng cách gập đôi người và rên rỉ.

"Thế giới vừa lộn ngược à?" cậu hỏi.

"Ừ, nó lại còn quay mòng mòng nữa chứ. Mọi thứ đều vàng khè. Nó phải là màu vàng hả?"

Annabeth và Piper trao đổi một cái nhìn lo lắng.

"Triệu tập cơn bão đó thực sự đã vắt kiệt sức lực của hai cậu rồi," Piper bảo hai cậu bạn."Các cậu cần phải nghỉ ngơi."

Annabeth gật đầu đồng ý. "Frank, cậu giúp bọn mình đưa hai cậu ấy xuống khoang được không?"

Frank liếc Leo, không nghi ngờ gì là đang chần chừ không muốn để cậu lại với Hazel một mình.

"Ổn mà, ông bạn," Leo nói. "Chỉ cần cố gắng đừng đánh rơi họ trên đường đi xuống là được."

Lúc mọi người đã xuống khoang hết rồi, Hazel và Leo lúng túng nhìn nhau. Họ hoàn toàn chỉ có một mình với nhau, nếu không tính HLV Hedge, ông thầy đang đứng ở boong lái hát bài hát nhạc phim Pokémon[5]. Ông thầy đã đổi lời bài hát thành Phải giết sạch bọn chúng[6] và Leo thực sự không muốn biết tại sao.

Bài hát không có vẻ giúp được gì cho chứng nôn nao của Hazel.

"Ui..." Cô chúi người về phía trước và ôm sườn. Cô có mái tóc rất đẹp--xoăn xoăn màu nâu sáng như những cuộn vỏ quế. Tóc của cô làm cậu nhớ đến một chỗ làm bánh quẩy churros[7] cực ngon ở Houston. Ý nghĩ ấy khiến cậu thấy đói.

"Đừng cúi về phía trước," cậu khuyên. "Đừng nhắm mắt lại, làm thế chỉ càng làm cơn buồn nôn tệ hơn."

"Vậy hả? Anh cũng bị say sóng à?"

"Không phải say sóng. Nhưng ô tô làm anh thấy nôn nao, cả..."

Cậu ngăn mình lại. Cậu định nói cả nói chuyện với con gái nữa, nhưng cậu quyết định giữ câu đó lại cho chính mình.

"Ô tô á?" Hazel chật vật ngồi thẳng dậy. "Anh có thể lái một con tàu hay cưỡi một con rồng, nhưng lại say xe?"

"Anh biết, kì cục nhỉ?" Leo nhún vai. "Anh đặc biệt kiểu vậy đấy. Nghe này, giữ cho tầm mắt em ở đường chân trời. Đó là một điểm cố định. Sẽ có ích đấy."

Hazel hít một hơi và nhìn ra xa. Mắt cô có màu vàng rực rỡ, như những bánh răng bằng đồng vàng bên trong cái đầu cơ khí của Festus.

"Đỡ hơn tí nào chưa?" Cậu hỏi.

"Có lẽ có một chút đỉnh." Giọng cô nghe như thể cô chỉ cố tỏ ra lịch sự. Cô giữ tầm mắt nhìn vào đường chân trời, nhưng Leo có cảm giác cô đang đo lường tâm trạng của cậu, cân nhắc xem nên nói gì.

"Frank không cố tình đánh rơi anh đâu," cô nói. "Anh ấy không phải kiểu người như thế, anh ấy chỉ thỉnh thoảng hơi vụng về thôi."

"Úi," Leo nói, bằng giọng giống Frank Trương nhất của cậu. "Đánh rơi Leo vào giữa một tiểu đội địch mất rồi. Khỉ thật."

Hazel cố nín cười. Leo thấy cười còn đỡ hơn là nôn mửa.

"Dễ dãi với anh ấy một chút đi," Hazel nói, "Anh với mấy quả cầu lửa của anh khiến anh ấy lo lắng."

"Anh chàng đó có thể biến thành một con voi, thế mà anh lại khiến cậu ta thấy lo lắng á?"

Hazel tiếp tục nhìn đường chân trời. Trông cô không còn quá nôn nao nữa, bất chấp chuyện HLV Hedge vẫn tiếp tục nghêu ngao bài hát Pokémon của ông ở khoang bánh lái.

"Leo," cô nói. "Về chuyện xảy ra ở Hồ Muối Lớn..."

Đến rồi đây, Leo nghĩ.

Cậu nghĩ đến cuộc gặp gỡ của họ với nữ thần báo thù Nemesis. Cái bánh quy may mắn trong cái đai dụng cụ của cậu dường như nặng thêm. Tối qua, khi họ bay khỏi Atlanta, Leo nằm trong cabin của cậu và nghĩ đến chuyện cậu đã làm Hazel tức giận đến mức nào. Cậu đã suy nghĩ xem làm cách nào để sửa chữa.

Cậu sẽ sớm phải đối mặt với một vấn đề cậu không thể giải quyết, Nemesis đã nói như vậy, Tuy nhiên, ta có thể giúp cậu...với một cái giá.

Leo đã lôi cái bánh quy may mắn đó ra khỏi cái đai dụng cụ của cậu và lật lật nó giữa các ngón tay, tự hỏi cậu sẽ phải trả cái giá gì nếu cậu bóp nó ra.

Có lẽ đây là lúc làm vậy.

"Anh rất sẵn lòng," cậu bảo Hazel, "Anh có thể dùng cái bánh quy may mắn để tìm em trai em."

Trông Hazel có vẻ sững sờ. "Gì cơ? Không! Ý em là...không đời nào em lại yêu cầu anh làm thế. Không phải sau khi Nemesis nói về cái giá khủng khiếp. Bọn mình thậm chí còn chẳng biết nhau mấy."

Lời bình chẳng biết nhau mấy khá đau, dù Leo biết đấy là sự thật.

"Thế...đấy không phải chuyện em định nói à? Cậu hỏi. "Ờ, có phải em muốn nói về khoảnh khắc nắm-tay-trên-tảng-đá không? Bởi vì--"

"Không" cô nói nhanh, quạt quạt mặt mình theo cái cách dễ thương mà cô vẫn hay làm mỗi khi bối rối. "Không, em chỉ đang nghĩ đến cách anh lừa Narcissus và mấy thần nữ đó..."

"Ờ, phải rồi." Leo bối rối nhìn vào cánh tay cậu, hình xăm HÀNG NÓNG vẫn chưa phai hẳn. "Có vẻ là một ý hay vào lúc đó."

"Lúc đó anh thật đáng kinh ngạc," Hazel nói, "Em cứ nghĩ đi nghĩ lại, anh làm em nhớ đến--"

"Sammy," Leo đoán. "Anh ước gì em nói cho anh biết cậu ta là ai."

"Từng là," Hazel đính chính. Không khí buổi tối ấm áp, nhưng cô lại rùng mình. "Em vẫn nghĩ...em có thể chỉ cho anh thấy."

"Ý em là như kiểu một bức ảnh á?"

"Không. Có một kiểu hồi tưởng xảy đến với em. Lâu rồi em chưa thấy nó, và em chưa từng cố ý làm nó xảy ra. Nhưng em từng chia sẻ một hồi tưởng với Frank, nên em nghĩ..."

Hazel khóa tầm mắt với cậu. Leo bắt đầu cảm thấy chộn rộn, như thể cậu bị tiêm cà phê. Nếu cái hồi tưởng này là thứ Frank từng chia sẻ với Hazel thì...chà, hoặc Leo không muốn mẩu nào của nó, hoặc cậu dứt khoát muốn thử nó. Cậu cũng không chắc là cái nào.

"Em nói là hồi tưởng..." Cậu nuốt nước bọt. "Chính xác thì ta đang nói đến cái gì? Nó có an toàn không?"

Hazel chìa tay ra. "Em không muốn yêu cầu anh làm việc này đâu, nhưng em chắc chắn là nó quan trọng. Việc bọn mình gặp nhau không thể là ngẫu nhiên. Nếu chuyện này thành công, có lẽ cuối cùng bọn mình cũng sẽ biết được bọn mình có liên hệ với nhau như thế nào."

Leo nhìn lại boong lái. Cậu vẫn có một cảm giác ngờ ngợ bừng bực rằng cậu đã quên chuyện gì đó, nhưng HLV Hedge có vẻ đang làm khá ổn. Bầu trời phía trước quang đãng. Không có dấu hiệu gì của rắc rối.

Hơn nữa, một hồi tưởng nghe có vẻ là một thứ khá chóng vánh. Để HLV Hedge phụ trách trong vài phút cũng chẳng chết ai, đúng không?

"Được rồi," cậu động lòng. "Chỉ cho anh xem nào."

Cậu nắm lấy tay Hazel, và thế giới tan biến.

Fancy Cross Page Divider
[0] Chiron, Nhân mã Chiron - thầy dạy của Achilles - đã bị Hercules, trong một lần truy đuổi kẻ thù, lỡ tay làm rơi mũi tên trúng chân Chiron, những mũi tên này đều tẩm kịch độc từ máu của Hydra (quái vật rắn nhiều đầu Hercules đã giết trước đó) nên bị chết. Hối hận vì hành động nông nổi Hercules đã đưa Chiron lên thành một chòm sao trên trời. Chiron là một nhân mã xuất sắc nhất trong loài của mình, ông đã đào tạo nhiều anh hùng trong thần thoại Hi Lạp, ông không những hiểu biết nhiều trong nhiều lĩnh vực mà còn có kỹ năng chiến đấu tuyệt vời, đặc biệt là khả năng sử dụng cung tên. Vì lẽ đó người ta thường thấy chòm sao Nhân Mã đang giương cung lên ngắm bắn nên còn gọi là chòm sao Xạ Thủ.
[1] kiếm Nerf: kiếm nhựa do hãng đồ chơi Nerf-một hãng đồ chơi của Mỹ-sản xuất.
NerfN-ForceSwords
[2] root beer: một loại đồ uống ngọt của Mĩ, thường được làm từ rễ hoặc vỏ của cây de vàng (sassafra-một loại cây mọc ở Bắc Mỹ, thuộc họ nguyệt quế, vỏ và rễ có vị ngọt, lá có mùi thơm), có hai loại bia rễ cây là loại có cồn (lượng cồn rất thấp) và loại ngọt.
bia
[3] Super Soakers: một loại súng phun nước cũng của hãng đồ chơi Nerf.
súng
[4] bull dog: một giống chó chắc người, mặt có nhiều nếp nhăn, khá dữ dằn.
bull
[5] Pokémon-Pokémon (ポケモン) là một trò chơi điện tử của hãng Nintendo Nhật Bản được phát triển bởi Tajiri Satoshi phát hành vào năm 1996. Hiện đã trở thành một thương hiệu đang thịnh hành ở nhiều quốc gia khác trên thế giới, đã được chuyển thể thành các bộ anime, truyện tranh,... nhiều tập. Hoạt hình Pokémon đã được chiếu ở Việt Nam.
Pokemon
[6] Nhạc phim Pokémon tên là Gotta catch 'em all (phải bắt được tất cả bọn chúng), nhưng HLV Hedge lại hát thành Gotta kill 'em all (phải giết sạch bọn chúng).





[7]churros: một loại bánh rán như quẩy của mình, ăn với đường trộn bột quế hoặc chấm chocolat.
quẩy

Thursday, May 16, 2013

The Mark of Athena _ Chương 20

The Mark of Athena


Dấu hiệu Athena


Chương 20


Annabeth


Reyna



CUỘC NỘI CHIẾN MỚI ĐÃ BẮT ĐẦU.

Leo, bằng cách nào đó, đã thoát khỏi cú rơi mà không hề hấn gì. Annabeth nhìn thấy cậu tránh né từ mái hiên này sang mái hiên khác[1], cho nổ mìn vào những con đại bàng khổng lồ sà xuống chỗ cậu. Các á thần La mã cố gắng đuổi theo nhưng vấp phải đống đạn của súng thần công và phải luồn lách qua đám khách du lịch, những người đang la hét và chạy theo vòng tròn.

Hướng dẫn viên tiếp tục gào lên, “Đó chỉ là tái hiện!” Mặc dù họ có vẻ không chắc lắm. Màn Sương Mù chỉ có thể làm thay đổi những gì mà người thường nhìn thấy.

Ở giữa sân, một con voi trưởng thành – có thể là Frank? – giận dữ ruổi quanh cột cờ, rượt các chiến binh La Mã chạy tán loạn. Jason đứng cách đó khoảng năm mươi mét, đấu kiếm với một sĩ quan trông chắc nịch, môi son màu đỏ anh đào, như máu. Có thể là một con ma cà rồng, hoặc một con quái vật Kool-Aid[2]?

Khi Annabeth trông thấy, Jason hét lên, “Xin lỗi chuyện này, Dakota!”

Cậu nhảy thẳng qua đầu cậu sĩ quan như một diễn viên nhào lộn và nện cán kiếm vào đầu cậu La Mã. Dakota ngã gục.

“Jason!” Annabeth gọi.

Cậu nhìn một lượt chiến trường trước khi nhìn cô.

Cô chỉ vào nơi tàu Argo II neo đậu. “Đưa những người khác lên tàu! Rút lui!”

“Còn cậu thì sao?” cậu hỏi.

“Đừng đợi tớ!”

Annabeth lao đi trước khi cậu lên tiếng phản đối.

Cô gặp khó khăn lúc đi qua đám đông khách du lịch. Tại sao có nhiều người muốn xem Đồn Sumter vào mùa hè nóng nực thế này cơ chứ? Nhưng Annabeth nhanh chóng nhận ra đám đông đang cứu mạng cô. Nếu không có sự hỗn loạn của những người đang sợ hãi này, người La Mã chắc đã bao vây hết bọn cô rồi.

Annabeth chạy vào căn phòng nhỏ, chắc chắn là một phần của các đơn vị đồn trú. Cô cố ổn định hơi thở. Cô tưởng tượng mình là một người lính Liên Minh trên hòn đảo này vào năm 1861. Bị bao vây bởi kẻ địch. Cạn kiệt lương thực và quân nhu, không có tiếp viện.

Một số quân Liên Minh là con Athena. Họ đã giấu tấm bảng đồ quan trọng ở đây – thứ gì đó mà họ không muốn để rơi vào tay kẻ thù. Nếu Annabeth là một trong số những á thần đó, cô sẽ để nó nơi nào?

Đột nhiên các bức tưởng trở lấp lánh. Không khí trở nên ấm áp. Annabeth tự hỏi liệu cô có đang gặp ảo giác hay không. Cô sắp sửa chạy đến lối ra ngay khi cánh cửa đóng sầm lại. Vữa giữa nhưng phiến đá phồng lên. Bong bóng nổ lốp bốp và hàng ngàn con nhện nhỏ trồi lên.

Annabeth không thể di chuyển. Tim cô như ngừng đập. Những con nhện bao trùm các bức tường, bò lên nhau, dàn ra khắp sàn nhà và từ từ bao vây lấy cô. Không thể nào. Điều này không phải là thật.

Nỗi sợ nhấn chìm cô vào kí ức. Đó là khi cô lên bảy, ở một mình trong phòng ngủ ở Richmond, Virginia. Những con nhện đến vào ban đêm. Chúng bò từng lớp từ tủ quần áo của cô và chờ trong bóng tối. Cô hét gọi cha cô, nhưng ông ấy đã đi công tác. Ông ấy dường như luôn luôn đi công tác.

Thay vào đó, mẹ kế của cô bước vào.

Em không ngại làm một mật thám xấu xa, bà đã một lần nói với cha cô, khi bà nghĩ Annabeth không nghe thấy.

Nó chỉ là tưởng tưởng của con, mẹ kế của cô nói về những con nhện. Con đang làm các em trai sợ đấy.

Chúng không phải các em, Annabeth cãi lại, điều đó làm biểu hiện của mẹ kế trở nên gay gắt. Đôi mắt của bà gần như trở nên đáng sợ như những con nhện.

Đi ngủ ngay, mẹ kế của cô nhấn mạnh. Không la hét nữa.

Những con nhện quay trở lại ngay khi mẹ kế của cô ra khỏi phòng. Annabeth cố gắng trốn dưới chăn, nhưng không khả thi lắm. Cuối cùng cô ngủ thiếp đi vì kiệt sức. Cô thức dậy vào buổi sáng, phủ đầy những vết cắn, mạng nhện bao quanh mắt, mũi, miệng cô.

Những vết cắn biến mất khi cô thay quần áo, cho nên cô không có gì cho mẹ kế cô thấy ngoại trừ mạng nhện, nhưng bà nghĩ chúng là trò đùa tinh quái.

Không được nói về nhện nữa, mẹ cô cứng rắn nói. Con đã lớn rồi.

Đêm thứ hai, bọn nhện lại đến. Mẹ kế của cô tiếp tục làm tên mật thám xấu xa. Annabeth không được phép gọi cho cha cô và làm phiền ông bởi những điều vớ vẫn. Không, ông ấy sẽ không về nhà sớm.

Đêm thứ ba, Annabeth trốn khỏi nhà.

Sau đó, ở trại Con Lai, cô biết được tất cả những đứa con của Athena đều sợ nhện. Rất lâu về trước, Athena dạy cho một thợ dệt người thường là Arachne một bài học nặng nề - nguyền rủa bà ta vì thói kiêu ngạo bằng cách biến bà ta thành con nhện. Từ đó, bọn nhện ghét con cái Athena.

Nhưng điều đó không làm cô vượt qua nỗi sợ dễ dàng hơn khi đối mặt với chúng. Một lần, cô đã suýt giết chết Connor Stoll ở trại vì bỏ một con Tarantula[3] vào giường cô. Nhiều năm sau, cô gặp phải một cuộc tấn công kinh hoàng ở công viên nước ở Denver, khi Percy và cô bị tấn công bởi con nhện máy. Và vài tuần sau đó, Annabeth vẫn mơ thấy những con nhện đấy hằng đêm – bò khắp người cô, làm cô ngạt thở, quấn cô trong đống mạng nhện.

Bây giờ, cô đang đứng trong doanh trại ở Đồn Sumter, cô bị bao vây. Cơn ác mộng đã trở sự thật.

Một giọng nói ngái ngủ thì thầm trong đầu cô: Sẽ sớm thôi, con gái. Ngươi sẽ gặp người thợ dệt đó sớm thôi.

“Gaea?” Annabeth thì thầm. Cô sợ câu trả lời, nhưng vẫn hỏi: “Ai – người thợ dệt nào?”

Lũ nhện trở nên phấn khích, bò ngập trên tường, xoáy quanh chân của Annabeth như một xoáy nước màu đen lấp lánh. Annabeth chỉ hy vọng nó là ảo ảnh để giữ cô thoát khỏi nỗi sợ.

Ta hy vọng ngươi sống sót, cô gái, giọng người phụ nữ nói. Ta thích ngươi làm tế vật cho ta hơn. Nhưng chúng ta phải để người thợ dệt trả thù...

Giọng của Gaea mờ đi. Trên tường, ở trung tâm đám nhện, một biểu tượng đỏ rực: hình con cú như cái trên đồng bạc drachma, nhìn thẳng vào Annabeth. Sau đó, cứ như trong cơn ác mộng của cô, Dấu hiệu của Athena cháy trên tường, thiêu rụi lũ nhện cho đến khi căn phòng trống rỗng, ngoại trừ mùi tro ngột ngạt.

Đi đi, một giọng nói khác – giọng của mẹ Annabeth. Trả thù cho ta. Lần theo Dấu hiệu.

Biểu tượng con cú sáng rực mờ dần. Cánh cửa đồn trú mở bật ra. Annabeth đứng sững sờ ở giữa phòng, không chắc là cô đã nhìn thấy thứ gì đó thật, hay chỉ là ảo ảnh.

Một vụ nổ làm rung chuyển tòa nhà. Annabeth nhớ lại các bạn cô đang gặp nguy hiểm. Cô đã ở đây quá lâu.

Cô buộc bản thân phải di chuyển. Vẫn còn run rẩy, cô nhìn ra ngoài. Đại dương giúp cô thoải mái hơn. Cô liếc về cái sân – qua những người khách du lịch đang hoảng sợ và những á thần đang đánh nhau – đến rìa chiến trường, nơi một cây súng cối lớn đang chỉ ra ngoài biển.

Có thể Annabeth tưởng tượng, nhưng khẩu pháo cũ có màu đỏ rực. Cô chạy về hướng đó. Một con đại bàng tấn công cô, nhưng cô cúi nhanh xuống và tiếp tục chạy. Không thứ gì làm cô sợ hãi bằng những con nhện.

Các á thần La Mã lập hàng ngũ và đang tiến về phía tàu Argo II, nhưng một cơn bão nhỏ đã tụ lại trên đầu họ. Mặc bầu trời vẫn quang đãng quanh họ, sấm sét ầm ầm, chớp lóe lên phía trên đám người La Mã. Mưa gió cản họ lại.

Annabeth không dừng lại để nghĩ về nó.

Cô đến được cái súng cối và để tay lên mũi nó. Trên cái chốt đóng mở, Dấu hiện Athena sáng lấp lánh – đường viền màu đỏ xung quanh con cú.

“Trên cái súng cối,” cô nói. “Dĩ nhiên rồi.”

Cô gỡ các chốt. Không may. Khốn thật, cô rút con dao găm của mình. Ngay khi Đồng Thiên Thai chạm vào cái chốt, nó co lại và nới lỏng. Annabeth kéo nó ra và xọc ngón tay vào trong ống pháo.

Ngón tay cô chạm vào thứ gì đó lạnh ngắt, láng mịn và làm bằng kim loại. Cô lấy ra một cái đĩa nhỏ bằng đồng có kích thước bằng một đĩa trà, được khắc chữ tinh tế và có hình minh họa. Cô quyết định xem xét nó sau. Cô để nó trong ba lô của mình và quay lại.

“Đang vội sao?” Reyna hỏi.

Vị pháp quan đứng cách đó khoảng ba mét, chiến giáp đầy đủ, tay cầm lao vàng. Hai con chó săn kim loại gầm gừ nhìn về phía cô.

Annabeth quan sát xung quanh. Họ dường như đơn độc. Trận chiến đã dời đến bến cảng. Hy vọng các bạn của cô xử việc ngon lành trên tàu, nhưng họ phải lên đường ngay lập tức hoặc có nguy cơ bị bắt. Annabeth phải nhanh lên.

“Reyna,” cô nói, “những điều xảy ra với trại Jupiter đều là lỗi của Gaea. Eidolon, lũ ám hồn_”

“Tiết kiệm lời giải thích của cậu đi,” Reyna nói. “Cậu sẽ cần nó cho vụ xét xử.”

Những con chó gầm gừ và tiến về phía trước. Khi đó, vấn đề Annabeth nói thật có vẻ chẳng hề quan trọng với họ. Cô cố gắng suy nghĩ một kế hoạch đào thoát. Cô tự hỏi mình có thể đấu với Reyna một-chọi-một không. Nhưng với lũ con chó kim loại, cô chẳng có cơ hội nào.

“Nếu cậu muốn để Gaea chia tách hai trại,” Annabeth nói, “bọn khổng lồ sẽ chiến thắng. Chúng sẽ hủy diệt Lã Mã, Hy Lạp, các vị thần, toàn bộ thế giới loài người.”

“Cậu không nghĩ là tôi biết điều đó sao?” Giọng Reyna cứng như sắt. “Cậu sẽ cho tôi được lựa chọn nào kia chứ? Octavian rất khát máu. Cậu ta điên cuồng thu phục các quân đoàn và tôi không thể ngăn chặn được. Đầu hàng đi. Tôi sẽ đưa các cậu về Rome Mới xét xử. Sẽ không công bằng. Các cậu sẽ bị xử phạt đau đớn. Nhưng đủ để ngăn chặn bạo lực. Octivian sẽ không hài lòng, tất nhiên, nhưng tôi nghĩ tôi có thể thuyết phục những người khác rút lui.”

“Đó không phải tại tôi!”

“Không quan trọng!” Reyna ngắt lời. “Ai đó phải trả giá cho những chuyện đã xảy ra. Cứ để người đó là cậu. Lựa chọn thế sẽ tốt hơn.”

Da Annabeth râm ran. “Tốt hơn cái gì?”

“Sử dụng trí tuệ của cậu,” Reyna nói. “Nếu cậu trốn thoát được trong hôm nay, chúng tôi sẽ không đuổi bắt nữa. Tôi nói cho cậu nghe – thậm chí ngay cả một kẻ điên cũng sẽ không vượt biển để đến vùng đất cổ xưa. Nếu Octavian không thể trả thù tàu cậu, cậu ta sẽ hướng đến Trại Con Lai. Các binh đoàn sẽ khởi quân trên vùng đất của cậu. Chúng tôi sẽ san bằng nó.”

Giết bọn người La Mã, cô nghe được tiếng của mẹ cô thúc giục. Chúng không bao giờ là đồng minh của con.

Annabeth muốn khóc. Trại Con Lai thực sự là ngôi nhà duy nhất cô từng được biết đến và để trả giá cho tình bạn, cô đã nói cho Reyna biết chính xác nơi để tìm nó. Cô không thể để trại rơi vào quyền kiểm soát của người La Mã và đi  xa cách nửa vòng thế giới.

Nhưng nhiệm vụ của họ và mọi thứ cô đã trải qua để mang Percy trở lại...nếu cô không đến vùng đất cổ xưa đó, sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Không những thế, Dấu hiện Athena không phải dẫn đến phục thù.

Nếu ta có thể tìm được đường về nhà, mẹ cô đã từng nói, con đường về nhà...

Con sẽ sử dụng món quà của mình như thế nào? Aphrodite đã từng hỏi. Vì chiến tranh hay hòa bình?

Đây là câu trả lời. Dấu hiệu Athena có thể dẫn cô đến đó – nếu cô sống sót.

“Tớ sẽ,” cô nói với Reyna. “Tớ sẽ lần theo Dấu hiệu Athena đến Rome.”

Vị pháp quan lắc đầu. “Cậu không biết chuyện gì đang đợi cậu đâu.”

“Có, tớ biết,” Annabeth nói. “Mối hận thù giữa hai trại...tớ có thể hàn gắn nó.”

“Ác cảm đó đã có từ hàng ngàn năm qua. Làm sao một người có thể hàn gắn nó?”

Annabeth ước gì cô có thể đưa ra một câu trả lời thuyết phục, cho Reyna thấy chương trình 3-D hay là một sơ đồ thông minh, nhưng cô không thể. Cô chỉ biết cô phải thử. Cô nhớ đến ánh mắt hoang mang trên khuôn mặt mẹ cô: Ta phải về nhà.

“Nhiệm vụ phải thành công,” cô nói. “Cậu có thể thử ngăn chặn tớ, trong trường hợp đó bọn tớ sẽ chiến đấu đến cùng. Hoặc cậu có thể để tớ đi và tớ sẽ cố gắng cứu cả hai trại. Nếu các cậu phải khởi quân ở Trại Con Lai, ít nhất hãy thử trì hoãn nó. Làm chậm bước đi của Octivian.”

Mắt của Reyna nheo lại. “Là một cô con gái của nữ thần chiến tranh khác, tớ tôn trọng sự táo bạo của cậu. Nhưng nếu cậu rời khỏi bây giờ, cậu đã đẩy trại của cậu tới bước diệt vong.”

“Đừng quá xem thường Trại Con Lai,” Annabeth cảnh báo.

“Cậu chưa bao giờ thấy binh đoàn trong các trận chiến,” Reyna phản đối.

Ngoài bến cảng, một giọng nói quen thuộc hét lên trong gió: “Giết chúng! Giết hết chúng đi!”

Octivian đã sống sót và đang bơi trong cảng. Cậu ta núp phía sau vệ sĩ của mình, la hét cỗ vũ những á thần La Mã tấn công con tàu, giữ chặt khiên của họ để làm lệch hướng các cơn bão dữ dội xung quanh mình.

Trên boong tàu Argo II, Percy và Jason đứng cạnh nhau, kiếm họ giao nhau. Annabeth cảm nhận sự náo nức lan đến cột sống của cô khi cô nhận ra hai chàng trai đang làm việc như một, triệu hồi bầu trời và biển cả thực hiện mệnh lệnh của mình. Nước và gió khuấy vào nhau. Sóng trào dâng đánh vào thành lũy và chớp lóe lên. Những con đại bàng khổng lồ bị đánh bật khỏi bầu trời. Đống đổ nát của chiếc phi xa cháy trong nước và HLV Hedge đung đưa một cái nỏ, thực hiện mấy cú bắn bừa vào những con chim La Mã khi chúng bay trên trời.

“Cậu thấy chưa?” Reyna nói một cách cay đắng. “Ngọn giáo đã được phóng đi. Chúng ta đang có chiến tranh.”

“Sẽ không nếu tớ thành công,” Annabeth nói.

Biểu hiện của Reyna giống khi ở trại Jupiter, khi cô nhận thấy Jason đã có cô gái khác. Vị pháp quan quá cô độc, quá cay đắng và bị phụ lòng tin rằng mọi thứ có thể đúng đắn với cô một lần nữa. Annabeth chờ cô tấn công.

Thay vào đó, Reyna búng tay. Hai con chó kim loại lùi lại. “Annabeth Chase,” cô nói, “lần sau chúng ta gặp lại, sẽ là kẻ thù trên chiến trường.”

Vị pháp quan quay người và bước ngang qua thành lũy, những con chó săn theo sau cô.

Annabeth lo sợ đó là một trò đùa, nhưng cô không có thời gian để nghi ngờ. Cô chạy đến chỗ con tàu.

Những cơn gió đập vào người La Mã dường như không ảnh hưởng đến cô.

Annabeth chạy nước rút về phía họ. Octivian hét lên, “Ngăn cô ta lại!”

Một cây giáo bay ngang tai cô. Tàu Argo II đã chuẩn bị rời cảng. Piper đứng ở ván cầu, tay cô vươn ra.

Annabeth nhảy lên và nắm lấy tay Piper. Cái ván cầu rơi xuống biển, hai cô gái đổ nhào lên boong.

“Đi!” Annabeth la lên. “Đi, đi, đi thôi!”

Động cơ ầm ầm phía dưới cô. Các mái chèo khuấy động. Jason đổi hướng gió và Percy gọi một cơn sóng khổng lồ nâng con tàu lên cao hơn cả bức tường pháo đài rồi đẩy họ ra biển. Ngay khi tàu Argo II đạt vận tốc tối đa, Fort Sumter chỉ còn là một vệt mờ phía xa xa và họ đang chạy đua trên những con sóng đến vùng đất cổ xưa.

Fancy Cross Page Divider
[1] Mái hiên (từ tiếng Ý) là một cổng vòm dẫn đến lối vào của một tòa nhà, hoặc mở rộng như một hàng cột, với một cấu trúc mái nhà trên một lối đi, được hỗ trợ bởi các cột hoặc được bao bọc bởi những bức tường. Ý tưởng này đã được sử dụng rộng rãi trong Hy Lạp cổ đại và có ảnh hưởng đến nhiều nền văn hóa, bao gồm cả các nền văn hóa phương Tây.
[2] Kool-Aid là một nhãn hiệu thức uống sỡ hữu bởi Kraft Foods.
[3] Nhện tarantula được coi là một trong những loài nhện lớn và lông lá nhất thế giới. Chúng có thể đạt đến độ dài trên 10cm khi trưởng thành. Tên của nhện tarantula dựa trên một điệu nhảy tarantella của người da đỏ vùng Amazon. Sở dĩ nó có tên như vậy là vì khi bị nó cắn, người ta đau đớn phát điên lên và nhảy chồm chồm như lên cơn dại để quên đi sự đau buốt mà dường như giảm được rất nhiều khi cộng thêm với sức nóng của đống lửa.
nhện tl

Sunday, May 12, 2013

The Mark of Athena _ Chương 19

The Mark of Athena


Dấu hiệu Athena


Chương 19


Annabeth


tumblr_mgp5c83pBX1qf7q01o1_500


HỌ KHÔNG VỀ KỊP TỚI TÀU.
Nửa đường qua bến tàu, ba con đại bàng khổng lồ đáp xuống trước mặt họ. Mỗi con chở theo một biệt kích La Mã mặc áo tím quần bò với giáp vàng lấp lánh, gươm và khiên. Lũ đại bàng bay đi và tên La Mã đứng giữa, kẻ trông nhẳng nheo hơn hai gã kia nâng tấm giáp che mặt của mình lên.
“Hãy đầu hàng trước Rome!” Octavian rít lên.
Hazel rút thanh gươm kỵ sĩ của mình ra gầm gừ, “Cơ hội béo bở nhỉ, Octavian.”
Annabeth rủa thầm. Một mình gã, tên thầy bói giơ xương thì cô chả phiền, nhưng hai tên kia trông như những chiến binh dày dạn – to hơn, khỏe hơn nhiều loại mà Annabeth muốn vướng vô, đặc biệt do bởi Piper và cô chỉ được trang bị dao găm mà thôi.
Piper giương tay lên ra dấu xoa dịu. “Octavian, việc xảy ra ở trại đã bị sắp đặt. Chúng tôi có thể giải thích.”
“Chả nghe thấy cô nói gì cả!” Octavian la. “Sáp trong tai tụi này – đạt tiêu chuẩn để đấu với lũ Siren[1]. Giờ thì vứt vũ khí xuống và quay người lại từ từ để tôi còn trói tay mấy cô lại được.”
“Để em xiên gã một nhát,” Hazel lẩm bẩm. “Đi mà.”
Con tàu chỉ cách đó năm mươi b,ộ nhưng Annabeth chả thấy dấu hiệu gì của HLV Hedge trên boong. Chắc ông đang ở khoang dưới xem mấy cái chương trình võ thuật tổng hợp ngu ngốc của mình. Nhóm Jason sẽ chưa về cho tới lúc hoàng hôn và Percy chắc đang ở dưới nước, chẳng biết gì về cuộc xâm lăng. Nếu Annabeth lên được tàu, cô có thể dùng mấy cỗ nỏ phóng tiễn, nhưng chả có cách nào vượt qua được ba kẻ La Mã này cả.
Cô đang cạn dần thời gian. Lũ đại bàng lượn vòng trên đầu, kêu lên như đang báo với anh em của chúng: Này, có mấy đứa á thần Hy Lạp tươi ngon đàng này này! Annabeth không thấy cỗ phi xa[2] đâu nữa nhưng cô nghĩ nó cũng đâu đó gần đấy thôi. Cô phải nghĩ ra cái gì đó trước khi có thêm người La Mã tới.
Cô cần giúp đỡ…một kiểu tín hiệu báo nguy với HLV Hedge hay tốt hơn là – Percy.
“Này?” Octavian cao giọng. Hai tên bạn của gã vung gươm.
Rất chậm, chỉ dùng hai ngón tay, Annabeth rút con dao của mình ra. Thay vì thả rơi nó, cô ném nó ra xa hết mức có thể, xuống nước.
Octavian kêu lên the thé. “Làm thế làm quái gì hả? Tao có bảo ném đi đâu! Nó có thể làm bằng chứng. Hay chiến lợi phẩm nữa!”
Annabeth ngượng ngịu toét một nụ cười tóc-vàng-ngớ-ngẩn kiểu: Ối, ngu thật. Chả ai biết cô lại nghĩ cô có lúc ngu cả. Những Octavian có vẻ trúng kế rồi. Gã bực tức thở hắt ra.
“Hai cô còn lại …” Gã chĩa gươm vô Hazel và Piper. “Đặt vũ khí của các người xuống sàn bến. Không đùa đâ__”
Quanh mấy kẻ La Mã, Cảng Chaleston bắn tung như một đài phun nước Las Vegas trong giờ diễn. Khi tường nước biển hạ xuống, ba tên La Mã đã bay ra vịnh, lắp ba lắp bắp và cố gắng điên cuồng để nổi lên trong bộ áo giáp. Percy đứng trên bến tàu, cầm con dao của Annabeth.
“Cậu đánh rơi này,” cậu nói, mặt tỉnh bơ như không.
Annabeth quàng tay ôm cậu. “Mình yêu cậu!”
“Mọi người,” Hazel ngắt ngang. Cô nở một nụ cười trên mặt. “Bọn mình phải nhanh lên.”
Ở dưới nước, Octavian hét to, “Cho tao lên khỏi đây! Tao sẽ giết mày!”
“Trông thích thật,” Percy gọi với xuống.
“Gì hả?” Octavian thét lớn. Gã đang bám vô một trong hai cận vệ của mình, người đang gặp rắc rối với việc giữ cho cả hai nổi được.
“Chả gì cả!” Percy thét trả. “Đi thôi mọi người.”
Hazel nhăn mặt. “Bọn ta có thể không dìm họ chết chìm được không?”
“Không chìm đâu,” Percy hứa. “Anh đã khiến nước chảy quanh chân họ rồi. Ngay khi ta thoát khỏi vòng nguy hiểm anh sẽ cho họ vô bờ.”
Piper nhếch mép. “Hay đấy.”
Họ trèo lên boong tàu Argo II và Annabeth chạy ngay tới chỗ bánh lái. “Piper, xuống dưới. Dùng cái bồn trong bếp gửi thông điệp Iris[3]. Cảnh báo Jason về đây ngay!”
Piper gật đầu rồi phóng đi.
“Hazel, đi tìm HLV Hedge và bảo thầy ấy vác cặp chân lông lá lên boong ngay!”
“Phải thế rồi!”
“Và Percy – cậu với mình cần đưa con tàu tới Đồn Sumter.”
Percy gật đầu và chạy tới chỗ cột buồm. Annabeth giữ bánh lái. Tay cô lướt trên bảng điều khiển. Cô mong mình biết đủ để vận hhng chúng.
Annabeth từng thấy Percy vận hành một thuyền buồm cỡ lớn trước kia chỉ bằng sức mạnh ý chí. Giờ đây, cậu không làm cô thất vọng. Dây thừng tự bay lên – tháo nút buộc khỏi bến, tự kéo neo. Buồm giương lên đón gió. Trong khi ấy, Annabeth nổ máy động cơ. Các mái chèo duỗi ra với tiếng kêu như súng máy và tàu Argo II rời khỏi bến, hướng tới hòn đào phía xa.
Ba con đại bàng vẫn lượn vòng trên đầu, nhưng chúng không cố gắng đậu lên tàu gì cả, có lẽ bởi đầu tàu Festus cứ phun lửa mỗi khi chúng tiến gần. Thêm nhiều con đại bàng nữa đang bay theo đội ngũ tiến tới đồn Sumter – ít nhất một tá. Nếu mỗi con mang theo một á thần La Mã … thì có nhiều kẻ thù lắm đây.
HLV Hedge thình thịch lên thang với Hazel theo sau guốc.
“Bọn chúng đâu hả?” ông hỏi. “Tôi giết ai đây?”
“Không giết chóc gì hết!” Annabeth ra lệnh. “Chỉ phòng vệ cho con tàu mà thôi!”
“Những chúng phá ngang một bộ phim của Chuck Norris!”
Piper xuất hiện từ khoang dưới. “Gửi được một tin nhắn tới Jason rồi. Mờ mờ thôi, nhưng cậu ấy đã lên đường về rồi. Hẳn là phải__ ồ! Kia rồi!”
Nhô lên trên thành phố, đang hướng lại phía họ là một con đại bàng đầu trắng[4] khổng lồ, không giống lũ chim vàng La Mã.
“Frank!” Hazel nói.
Leo đang bám vô một chân đại bàng và dù là ngay từ trên thuyền, Annabeth cũng nghe thấy cậu đang la hét chửi rủa.
Phía sau họ là Jason đang cưỡi gió mà bay.
“Chưa bao giờ thấy Jason bay trước đây cả,” Percy càu nhàu. “Cậu ấy trông như Siêu nhân tóc vàng ấy.”
“Không phải lúc đâu!” Piper la cậu. “Trông xem, họ đang gặp rắc rối đó!”
Chắc chắn rồi, cỗ phi xa La Mã đã hạ xuống từ một đám mây và đang đi xuống hướng tới phía họ. Jason với Frank trệch ra khỏi đường bay, bay vụt lên để tránh bị lũ Pegasus đạp phải. Những người đánh xe bắn cung. Mũi tên rít gió ngay dưới chân Leo khiến cậu lại chửi rủa la hét lắm thêm. Jason với Frank buộc phải vượt tàu Argo II và bay tới đồn Sumter.
“Ta sẽ xử chúng!” HLV Hedge hét to.
Ông quay cỗ nỏ phóng tiễn bên mạn trái. Trước khi Annabeth có thể thét, “Đừng ngốc thế!” Hedge đã khai hỏa. Một mũi hỏa tiễn phóng vụt về phía cỗ phi xa.
Nó phát nổ trên đầu những con Pegasus và khiến chúng hoảng loạn. Không may là nó cũng làm xém cánh của Frank và khiến cậu mất kiểm soát. Leo tuột khỏi vuốt cậu. Cỗ phi xa bắn về phía đồn Sumter, nã đạn vào Jason.
Annabeth kinh hãi nhìn Jason – rõ ràng đang choáng váng và đau đớn – lao về phía Leo, chộp được cậu và vật lộn mãi để đạt được độ cao thích hợp. Cậu chỉ xoay sở làm chậm cú rơi của họ được thôi. Họ biến mất sau bức tường pháo đài. Frank nhào xuống ngay sau họ. Sau đó, cỗ chiến xa rớt xuống đâu đó chỗ đấy luôn với một tiếng RẮC! ghê người. Một bánh xe bắn vào khoảng không.
“Huấn Luyện Viên!” Piper hét toáng.
“Gì chứ?” Hedge cao giọng. “Chỉ là một cú bắn cảnh cáo đấy thôi!”
Annabeth rồ máy động cơ. Thân tàu rung lên khi họ tăng tốc. Các bến tàu trên đảo giờ chỉ cách có vài trăm thước nữa thôi, nhưng một tá đại bàng nữa đang vọt tới trên không, mỗi con quắp một á thần La Mã đằng móng.
Đoàn người tàu Argo II sẽ bị áp đảo số lượng ba đánh một.
“Percy,” Annabeth nói, “bọn mình sắp gặp khó khăn lắm lắm đấy. Mình cần cậu điều khiển nước để chúng không tràn vào boong. Một khi đến được đó rồi, cậu sẽ phải cầm chân những kẻ tấn công. Những người còn lại giúp cậu ấy giữ thuyền nhé.”
“Nhưng – Jason!” Piper nói.
“Frank và Leo nữa!” Hazel thêm vô.
“Chị sẽ tìm bọn họ,” Annabeth hứa. “Mình phải tìm ra tấm bản đồ ở đâu. Và mình chắc là chỉ mình mới tìm được nó thôi.”
“Trong đồn toàn người La Mã,” Percy cảnh báo. “Cậu sẽ phải phá vây xông vào, tìm bạn tụi mình – đảm bảo cho họ ổn – tìm tấm bản đồ và đưa mọi người sống sót trở về. Mình cậu làm tất ư?”
“Ngày báo thù mà.” Annabeth hôn cậu. “Dù cậu có làm gì thì cũng đừng để họ chiếm con tàu này nhé!”

Fancy Cross Page Divider


[1] Siren, những sinh vật xinh đẹp và nguy hiểm sống trên biển, thường ngồi trên các mỏm đá, dùng giọng ca mê hoặc các thủy thủ để họ đâm vào bãi đá ngầm khiến tàu chìm. Hình dạng có thể là mình chim đầu người hay thân người đuôi cá
Waterhouse-Ulysses
[2] flying chariot: xe ngựa bay, loại chiến xa có ngựa bay kéo
xe bay
[3] Iris, nữa thần cầu vồng và người đưa tin của các vị thần trong thần thoại Hy Lạp
iris
[4] bald eagle, 1 loại đại bàng dũng mãnh, biểu tượng nước mỹ, cũng là biểu tượng của thần Zeus.
EVO-WWI-064-01060

Friday, May 10, 2013

The Mark of Athena - Chương 18

The Mark of Athena


Dấu hiệu Athena


Chương 18


Annabeth


9aphrodite


ĐÊM ĐÓ, ANNABETH NGỦ MỘT GIẤC KHÔNG MỘNG MỊ, điều này chỉ làm cô thêm bồn chồn khi thức giấc - như sự yên bình trước một cơn bão vậy.
Leo cho tàu thả neo tại một cầu tàu ở Bến Cảng Charleston, ngay cạnh con đê chắn sóng. Dọc bờ biển là một khu dân cư cổ kính với những biệt thự lớn, những hàng cọ và hàng rào thép uốn. Những khẩu thần công cổ chĩa nòng súng xuống mặt nước.
Lúc Annabeth lên boong thì Jason, Frank và Leo đã trên đường đi tới bảo tàng rồi. Theo lời HLV Hedge, họ đã hứa sẽ trở lại vào lúc hoàng hôn. Piper và Hazel đã sẵn sàng khởi hành, nhưng trước tiên Annabeth quay về phía Percy, cậu đang đứng tựa vào tay vịn lan can, chăm chăm nhìn ra con vịnh.
Annabeth nắm lấy tay cậu. "Cậu định làm gì lúc bọn mình đi?"
"Nhảy xuống khu cảng," cậu nói rất bình thản, kiểu như những đứa trẻ khác vẫn nói, Mình sẽ kiếm ít đồ ăn vặt. "Mình muốn thử liên lạc với đám Nereid trong vùng. Có lẽ họ có thể cho mình vài lời khuyên về cách giải cứu đám sinh vật bị bắt nhốt ở Atlanta. Hơn nữa, mình nghĩ có lẽ biển sẽ tốt cho mình. Ở trong cái thủy cung đó khiến mình cảm thấy...không sạch sẽ."
Tóc cậu vẫn sẫm màu và rối bù như mọi khi, nhưng Annabeth nghĩ đến những lọn tóc bạc cậu từng có ở một bên đầu. Hồi bọn họ mười bốn tuổi, họ từng (bị buộc phải) thay nhau chống đỡ bầu trời. Áp lực khiến một ít tóc của cả hai bọn họ chuyển bạc. Suốt năm vừa rồi, trong lúc Percy mất tích, những vệt tóc bạc trên đầu cả hai người cuối cùng cũng đã biến mất, điều này lại khiến Annabeth cảm thấy hơi lo. Cô có cảm giác như thể mình đã mất đi một mối ràng buộc tượng trưng nào đó với Percy vậy.
Annabeth hôn cậu. "Chúc may mắn, Óc Tảo Biển, chỉ cần nhớ quay lại với mình, được chứ?"
"Mình sẽ quay lại." Cậu hứa. "Cậu cũng vậy nhé."
Annabeth cố dằn xuống nỗi bồn chồn đang lớn dần trong lòng.
Cô quay về phía Piper và Hazel. "Được rồi, các quý cô, đi tìm hồn ma Battery nào."
Sau này, Annabeth ước rằng cô đã nhảy xuống khu cảng cùng Percy. Thậm chí cô thà chọn một bảo tàng đầy ma còn hơn.
Không phải là cô không thích đi dạo cùng Piper và Hazel. Ban đầu, họ khá là vui vẻ khi dạo khắp đường kè Battery. Theo như biển chỉ dẫn thì công viên bên bờ biển đó tên là vườn White Point[1]. Làn gió biển cuốn trôi cái nóng oi bức của buổi chiều hè và dưới bóng những hàng cọ lùn, không khí mát mẻ dễ chịu. Ven con đường là một hàng những khẩu thần công từ thời Nội Chiến và tượng các nhân vật lịch sử bằng đồng khiến Annabeth rùng mình. Cô nhớ đến những bức tượng ở New York trong Cuộc chiến Titan, những bức tượng đã sống lại nhờ chuỗi lệnh hai mươi ba của Deadalus. Cô thắc mắc liệu cả nước còn có bao nhiêu bức tượng là người máy bí mật đang chờ được khởi động.
Cảng Charleston lấp lánh dưới ánh mặt trời. Ở phía bắc và nam, những dải đất vươn ra như những cánh tay ôm lấy con vịnh và chễm chệ ngay cửa cảng, cách khoảng một dặm phía ngoài là hòn đảo với một đồn công sự bằng đá. Annabeth nhớ mang máng cái đồn đó khá quan trọng trong cuộc Nội Chiến, nhưng cô cũng chẳng nghĩ nhiều đến việc ấy làm gì.
Chủ yếu cô chỉ hít thở làn hơi biển và nghĩ đến Percy. Cầu trời đừng để cô phải chia tay với cậu. Cô sẽ không bao giờ có thể ra biển lần nữa mà không nghĩ đến trái tim tan vỡ của mình mất. Cô nhẹ cả người khi họ đi khỏi con đê chắn sóng và thăm dò phần đất liền của vườn hoa.
Công viên không đông người cho lắm. Annabeth cho rằng hầu hết người dân địa phương đã đi nghỉ hè hoặc trốn trong nhà ngủ trưa. Ba người tản bộ dọc con phố Nam Battery, con phố có hàng biệt thự bốn tầng kiểu thời thuộc địa[2]. Những bức tường gạch phủ đầy thường xuân. Mặt tiền các ngôi biệt thự có những hàng cột cao vút như các ngôi đền La Mã. Những khoảnh vườn trước tràn ngập hoa hồng, hoa kim ngân và hoa giấy nở rộ. Trông cứ như thể Demeter đã đặt đồng hồ của tất cả những cây này ở chế độ nảy nở từ vài thập kỷ trước rồi quên quay lại kiểm tra thì phải.
"Nó đại khái làm em nhớ đến Rome Mới," Hazel nói. "Tất cả đám biệt thự rồi vườn hoa, rồi cột với mái vòm đó."
Annabeth gật đầu. Cô nhớ cô đã đọc được rằng trước thời nội chiến, Miền Nam nước Mỹ thường so sánh mình với Rome ra sao. Thời trước, xã hội của họ chỉ toàn nghệ thuật kiến trúc đầy ấn tượng, danh dự và phong thái hào hoa. Còn về mặt xấu xa, nó lại liên quan tới chế độ nô lệ. Thành Rome có nô lệ, một vài người miền Nam biện luận, Thì sao chúng ta không thể có cơ chứ?
Annabeth rùng mình. Cô yêu kiến trúc ở nơi này. Những ngôi nhà và vườn hoa rất đẹp, rất đậm chất La Mã. Nhưng cô tự hỏi tại sao những thứ đẹp đẽ lại cứ phải mang một lớp vỏ lịch sử đen tối. Hay là ngược lại? Phải chăng chính cái lịch sử xấu xa khiến người ta cần phải dựng nên những thứ xinh đẹp để che đậy những mặt đen tối đó?
Cô lắc lắc đầu. Percy sẽ ghét việc cô trở nên triết lý như vậy. Cô mà thử nói với cậu những thứ ấy như vậy, mắt cậu sẽ dại ra.
Hai cô gái còn lại không nói gì nhiều.
Piper liên tục nhìn quanh như thể cô đang chờ đợi một cuộc phục kích. Cô nói cô đã nhìn thấy công viên này trên lưỡi dao của mình, nhưng cô không chịu kể chi tiết. Annabeth đoán cô bạn sợ phải làm vậy. Nói cho cùng thì, lần cuối Piper cố giải nghĩa những hình ảnh trong con dao của cô, Percy và Jason đã suýt giết nhau ở Kansas.
Hazel cũng có vẻ lơ đãng. Có lẽ con bé đang quan sát xung quanh, hay có thể là đang nghĩ về em trai mình. Trong vòng chưa đầy bốn ngày nữa, trừ phi họ tìm thấy Nico và giải thoát thằng bé, không nó sẽ chết.
Annabeth cũng cảm thấy cái hạn đó đang đè nặng lên cô. Cô luôn có những cảm xúc lẫn lộn về Nico di Angelo. Cô ngờ rằng cậu đã đổ lỗi cho cô từ dạo cô cứu cậu và chị gái Bianca của cậu khỏi cái học viện quân sự ở Maine đó, nhưng Annabeth chưa từng có hứng thú với Nico. Cậu quá trẻ và quá ủ rũ. Có một phần tối tăm trong cậu khiến Annabeth không thoải mái.
Dẫu vậy, cô vẫn cảm thấy có trách nhiệm với cậu. Hồi họ mới gặp nhau, chưa ai trong số họ biết về người chị gái cùng cha khác mẹ của cậu, Hazel. Lúc đó, Bianca là người thân duy nhất còn sống của cậu. Khi cô mất, Nico trở thành đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa, một mình lang bạt trên thế gian. Annabeth có thể có liên quan tới chuyện đó.
Cô mải nghĩ ngợi đến nỗi có thể cô đã cứ thế mà đi dạo quanh công viên mãi, nhưng Piper túm lấy tay cô.
"Kia kìa." Cô chỉ ra phía kia bến cảng. Cách một trăm thước ngoài xa, một bóng hình trắng lấp lánh đang dập dềnh trên mặt nước. Ban đầu, Annabeth nghĩ đó là một cái phao hay xuồng cứu hộ đang phản chiếu ánh sáng mặt trời, nhưng rõ ràng nó đang phát sáng và chuyển động êm hơn một chiếc xuồng, tạo một đường thẳng tiến về phía họ. Khi vật thể đó tiến lại gần, Annabeth nhận ra đó là hình dáng một người phụ nữ.
"Hồn ma," Cô nói.
"Đó không phải một hồn ma," Hazel nói. "Không có loại hồn phách nào lại tỏa sáng rực rỡ như vậy."
Annabeth tin lời bạn cô nói. Cô không thể tưởng tượng mình là Hazel, chết từ khi còn quá trẻ như vậy, rồi quay trở lại từ Âm phủ, biết nhiều về người chết hơn cả người sống.
Như bị thôi miên, Piper băng qua con đường và đi về phía con đê chắn sóng, tránh được một cỗ xe ngựa chỉ trong đường tơ kẽ tóc.
"Piper!" Annabeth gọi.
"Tốt nhất là bọn mình nên theo chị ấy đi". Hazel nói.
Đến lúc Annabeth và Hazel theo kịp cô thì hồn ma chỉ còn cách có vài sải.
Piper lườm nó như thể nhìn thấy nó khiến cô bị xúc phạm.
"Quả nhiên là bà ấy." Cô gầm gừ.
Annabeth hé mắt nhìn hồn ma, nhưng nó phát sáng quá chói để có thể nhìn rõ chi tiết. Rồi bóng ma bay lên khỏi con đê chắn sóng và dừng ngay trước mặt bọn họ. Vầng sáng mờ đi.
Annabeth hít sâu một hơi. Người phụ nữ đó đẹp đến nghẹt thở, và quen thuộc một cách kỳ lạ. Khuôn mặt của bà ta thật khó miêu tả. Diện mạo bà ta dường như biến đổi từ những đường nét của hết diễn viên điện ảnh quyến rũ này đến những minh tinh màn bạc khác. Đôi mắt bà ta lấp lánh tinh nghịch - lúc thì xanh dương, khi thì xanh lá, lúc lại màu hổ phách. Mái tóc bà ta biến đổi từ tóc vàng dài và thẳng sang những lọn xoăn màu nâu sô-cô-la sẫm.
Ngay lập tức, Annabeth cảm thấy ghen tị. Cô luôn ước mình có một mái tóc sẫm màu. Cô có cảm giác không ai coi trọng một cô gái tóc vàng như cô. Cô phải cố gắng gấp đôi để được công nhận là một nhà chiến lược, một kiến trúc sư, một cố vấn trẻ tuổi - bất cứ thứ gì có liên quan đến đầu óc.
Người phụ nữ ăn mặc như một người đẹp Phương Nam, y như Jason miêu tả. Bộ đồ bà ta có phần thân trên xẻ sâu bằng lụa hồng và phần chân váy ba tầng và viền ren vỏ sò màu trắng. Bà ta đeo một đôi găng lụa dài màu trắng và cầm một cây quạt gắn lông vũ màu trắng-hồng.
Dường như mọi thứ trên người bà ta đều được tính toán để khiến Annabeth thấy thua kém: từ phong thái thoải mái khi bà mặc chiếc váy, cách trang điểm hoàn hảo mà không lộ liễu, đến cái cách bà ta tỏa nét quyến rũ nữ tính mà không một người đàn ông nào có thể cưỡng lại.
Annabeth nhận ra nỗi ghen tị của mình là bất hợp lý. Người phụ nữ này đang khiến cô cảm thấy như vậy. Cô từng có trải nghiệm này trước đây rồi. Cô nhận ra người phụ nữ này, dù mặt "bà ta" không ngừng biến đổi mỗi giây, càng lúc càng đẹp hơn.
"Aphrodite," cô nói.
"Venus?" Hazel kinh ngạc hỏi.
"Mẹ." Piper nói, không chút hào hứng.
"Các cô gái!" Vị nữ thần giang rộng tay như muốn một cái ôm tập thể.
Ba cô gái á thần không nghe theo. Hazel lùi về phía một gốc cọ lùn.
"Ta rất mừng là các con ở đây." Aphrodite nói. "Chiến tranh đang đến. Đổ máu là không thể tránh khỏi. Vậy nên chỉ có một việc duy nhất phải làm."
"Ờ...và đó là?" Annabeth đánh bạo hỏi.
"Sao cơ, hiển nhiên là uống trà và tán gẫu rồi. Theo ta nào!"
Aphrodite rất biết cách mở một buổi tiệc trà.
Bà dẫn ba người đến mái đình hóng mát[3] ở trung tâm vườn hoa - một vọng lâu[4] với những cây cột trắng, nơi có một chiếc bàn đã sắp sẵn đồ bạc, chén sứ Tàu và tất nhiên là cả một ấm trà nóng nghi ngút, hương trà cũng dễ dàng thay đổi như Aphrodite thay hình đổi dạng vậy - lúc là hương quế, khi là hương nhài, lúc lại là hương bạc hà. Trên bàn còn có một đĩa đầy bánh lúa mạch[5], bánh quy và bánh nướng xốp cùng với bơ tươi và mứt - tất cả, Annabeth nhận thấy, đều dễ gây béo khủng khiếp, trừ phi, dĩ nhiên rồi, bạn là nữ thần tình yêu bất tử.
Aphrodite ngồi - hay đúng hơn, thiết triều - trên một chiếc ghế con công[6] bằng liễu gai. Bà rót trà và mời bánh mà không bị rây một vệt nào ra váy áo, tư thế của bà luôn hoàn hảo, nụ cười của bà thì chói lóa.
Họ càng ngồi lâu, Annabeth càng thấy ghét bà ta hơn.
"Ôi, các cô gái ngọt ngào của ta," nữ thần nói. "Ta yêu Charleston lắm lắm ý! Những đám cưới ta đã tham dự ở vọng lâu này - chúng khiến ta rơi lệ. Và cả những vũ hội hồi Miền Nam Cũ nữa. A, chúng mới đáng yêu làm sao. Ở vườn của rất nhiều biệt thự trong số những biệt thự kia vẫn có tượng của ta, dù họ gọi ta là Venus.
"Người nào mới là bà?" Annabeth hỏi. "Venus hay Aphrodite?"
Nữ thần nhấp một ngụm trà. Mắt bà ta lóe lên vẻ tinh quái. "Annabeth Chase, cháu đã lớn phổng lên thành một quý cô trẻ xinh đẹp rồi đấy. Tuy vậy, cháu thực sự nên làm gì đó với mái tóc của mình. Và, Hazel Levesqe, quần áo của cháu-"
"Quần áo của cháu?" Piper nhìn xuống bộ đồ bò nhàu nhĩ của mình - không phải theo kiểu ngượng ngập lúng túng, mà chỉ bối rối, như thể cô không tưởng tượng được chúng có gì không ổn.
"Mẹ!" Piper nói. "Mẹ làm con xấu hổ đấy."
"Chà, ta không thấy có lý do nào khiến con cảm thấy xấu hổ cả." Vị nữ thần nói. "Chỉ vì con không coi trọng những bí quyết về thời trang của ta, Piper ạ, không có nghĩa là những người khác cũng không thích. Ta có thể "cải tạo" nhanh cho Annabeth và Hazel, có lẽ với những bộ váy dạ hội bằng lụa giống của ta-"
"Mẹ!"
"Được thôi," Aphrodites thở dài. "Và để trả lời câu hỏi của cháu, Annabeth, cả Aphrodite lẫn Venus đều là ta. Không như những người bạn Olympus của ta, ta hầu như không hề thay đổi theo năm tháng. Thật ra, ta thích nghĩ rằng ta không hề già đi tẹo nào!" Vị nữ thần vỗ vỗ lên khuôn mặt mình đầy tán thưởng." Dù gì đi nữa, tình yêu vẫn cứ là tình yêu, có là người La Mã hay người Hy Lạp cũng vậy thôi. Cuộc nội chiến này sẽ không ảnh hưởng nhiều tới ta như tới những người khác."
Tuyệt thật, Annabeth nghĩ. Mẹ của cô, một trong những vị thần Olympus trí tuệ nhất, bị biến thành một kẻ loạn trí hằn học lang thang trong một ga điện ngầm. Và trong số tất cả những vị thần có thể giúp họ, những kẻ duy nhất có vẻ không bị ảnh hưởng bởi sự giằng xé Hy Lạp-La Mã này là Aphrodite, Nemesis, và Dionysus. Tình yêu, báo thù và rượu vang. Hữu ích ghê.
Hazel gặm một miếng bánh quy đường. "Vẫn chưa có chiến tranh mà, thưa nữ thần."
"Ôi, Hazel yêu quý," Aphrodite gấp cây quạt của bà ta lại. "Thật là lạc quan làm sao, nhưng cháu sẽ phải đối mặt với những ngày tháng buồn đau phía trước. Dĩ nhiên là chiến tranh sẽ nổ ra. Tình yêu và chiến tranh luôn đồng hành với nhau. Chúng là những đỉnh cao của cảm xúc con người! Cái ác và cái thiện, cái đẹp và xấu xa.
Nữ thần cười với Annabeth như thể bà ta biết trước đó cô đã nghĩ gì về Miền Nam cũ.
Hazel đặt miếng bánh quy đường của cô xuống. Một ít vụn bánh dính trên cằm cô và Annabeth thích việc cô bạn không biết hoặc không buồn quan tâm đến chuyện đó.
"Ý bà là sao khi nói," Hazel hỏi, "ngày tháng buồn đau?"
Nữ thần cười ngất như thể Hazel là một chú cún con dễ thương." Chà, Annabeth có thể có vài gợi ý cho cháu đấy. Ta từng hứa sẽ làm cho đường tình duyên của con bé trở nên thú vị. Và ta đã làm vậy, không phải sao?"
Annabeth suýt nữa bẻ gãy quai tách trà của cô. Hàng nhiều năm trời, trái tim cô đã bị giằng xé. Đầu tiên là Luke Castellan, mối tình đầu của cô, người chỉ coi cô như em gái, rồi anh chuyển sang phe xấu và quả quyết rằng anh thích cô - ngay trước khi anh chết. Sau đó thì Percy đến, cậu khiến người ta điên tiết nhưng cũng rất dễ thương, thế nhưng cậu dường như lại phải lòng một cô gái khác tên là Rachel và rồi cậu suýt chết, vài lần liền. Cuối cùng thì Annabeth cũng có được Percy, chỉ để chịu đựng việc cậu bị mất tích trong sáu tháng và mất luôn cả trí nhớ.
"Thú vị," Annabeth nói, là một cách hòa nhã để diễn tả sự việc đó."
"Chà, ta không thể nhận hết công lao cho tất cả những rắc rối của cháu được," vị nữ thần nói. "Nhưng ta luôn thích những chỗ ngoắt ngoéo trong một câu chuyện tình. Ồ, cả ba người đều là những câu chuyện xuất sắc - ý ta là, các cô gái, các con khiến ta tự hào!"
"Mẹ," Piper nói, "có lý do nào để mẹ ở đây không?"
"Hửm? Ồ, ý con là ngoài việc uống trà ra á? Ta thường đến đây mà. Ta yêu quang cảnh, đồ ăn, không khí nơi đây - con có thể ngửi thấy sự lãng mạn và cả thất tình trong không khí, không phải sao? Hàng thế kỷ chồng chất những thứ đó.
Bà chỉ ra một biệt thự gần đó. "Các con có thấy cái sân thượng trên mái kia không? Chúng ta từng mở một buổi tiệc vào cái đêm cuộc Nội chiến mở màn. Đêm nổ súng trận đồn Sumter[7]."
"Chính là nó!" Annabeth nhớ ra. "Hòn đảo ở bến cảng. Đó là nơi trận đầu tiên trong cuộc nội chiến diễn ra. Liên minh miền nam nổ súng với Liên bang miền Bắc và chiếm cái đồn đó."
"Ôi, một bữa tiệc ra tiệc!" Aphrodite nói. "Một dàn tứ tấu dây[8] và tất cả đàn ông đều mặc quân phục. Những bộ váy của phụ nữ - các con phải thấy chúng! Ta đã nhảy với Ares - hay là Mars nhỉ? Ta e rằng lúc đó ta hơi ngà ngà. Và những luồn sáng xinh đẹp khắp bến cảng, tiếng gầm của đại bác mang đến cho những người đàn ông cơ hội được vòng tay ôm những người tình đang kinh hãi của họ!"
Trà của Annabeth lạnh ngắt. Cô chưa ăn gì, nhưng cô cảm thấy buồn nôn.
"Bà đang nói về sự mở màn của một trong những cuộc chiến đẫm máu nhất lịch sử nước Mỹ đấy. Hơn sáu trăm nghìn người chết - còn nhiều hơn số người Mỹ đã chết trong cả Thế chiến thứ nhất và thứ hai cộng lại."
"Và những món ăn!" Aphrodite tiếp tục. "A, chúng còn trên cả tuyệt vời. Đích thân tướng Beauregard đã hiện diện ở đó. Thật là một anh chàng trăng hoa. Lúc đó anh ta đi cùng với người vợ thứ hai, nhưng các cháu phải thấy cái cách anh ta nhìn Lisbeth Cooper-"
"Mẹ!" Piper ném chiếc bánh lúa mạch của cô cho lũ bồ câu.
"Ờ, xin lỗi," vị nữ thần nói. "Tóm lại là, ta ở đây để giúp các con, các cô gái ạ. Ta ngờ rằng các con sẽ chẳng gặp được Hera mấy đâu. Nhiệm vụ nho nhỏ của các con khiến bà ta chẳng được chào đón là bao trong đại điện. Và các thần khác thì hơi khó ở, các con biết đấy, bị giằng xé giữa hai phần La Mã và Hy Lạp trong họ. Người bị nhẹ, người bị nặng." Aphrodite nhìn sang Annabeth. "Ta đoán cháu đã kể cho các bạn nghe về chuyện bất hòa với mẹ cháu rồi chứ?"
Má Annabeth nóng lên. Hazel và Piper nhìn cô tò mò.
"Bất hòa?" Hazel hỏi.
"Một cuộc tranh cãi," Annabeth đáp. "Không có gì đâu mà."
"Không có gì sao!" nữ thần nói. "Chà, ta không biết nữa. Athena là nữ thần đậm chất Hy Lạp nhất trong các nữ thần. Dù gì đi nữa, là người bảo trợ của Athens. Khi những người La Mã xâm chiếm..ờ, họ thu nhận Athena theo kiểu nào đó. Cô ấy trở thành Minerva, nữ thần của sự khéo léo và khôn ngoan. Nhưng người La Mã có những vị thần khác được ưa chuộng hơn, đáng tin cậy hơn - như Bellona[9]-"
"Mẹ của Reyna," Piper lẩm bẩm.
"Ừ, đúng vậy," nữ thần đồng ý. "Ta từng có một cuộc trò chuyện dễ thương với Reyna cách đây không lâu, ngay trong công viên này. Và dĩ nhiên, người La Mã có Mars. Và sau đó là Mithras[10] - còn không phải thần Hy Lạp hay La Mã thực sự, nhưng đám lính trong binh đoàn sùng bái hắn. Riêng ta luôn thấy hắn thô bỉ và khoe mẽ khủng khiếp. Dù sao thì người La Mã gần như cho Athena tội nghiệp ra rìa. Họ tước đi hầu hết quyền năng quân sự của cô ấy. Người Hy Lạp không bao giờ tha thứ cho người La Mã về nỗi sỉ nhục đó. Và Athena cũng vậy."
Tai Annabeth ù ù. "Dấu Hiệu Athena," cô nói. "Nó dẫn đường tới một bức tượng, phải không ạ? Nó dẫn lối tới...tới bức tượng đó."
Aphrodite mỉm cười. "Cháu rất khôn ngoan, như mẹ cháu vậy. Nhưng hãy hiểu rằng, các anh chị em của cháu, con cái Athena, đã kiếm tìm nó từ nhiều thế kỷ nay. Chưa ai thành công trong việc khôi phục bức tượng đó. Cho tới lúc này, họ vẫn mang mối thù với người La Mã. Mọi cuộc nội chiến...thật nhiều máu đổ và bao nhiêu trái tim tan vỡ...đều do những đứa con của Athena gây ra."
"Chuyện đó..." Annabeth muốn nói rằng điều đó là không thể, nhưng cô nhớ lại những lời cay đắng của Athena ở Ga điện ngầm Trung tâm, lửa hận bùng cháy trong mắt cô.
"Thật lãng mạn ư?" Aphrodite gợi ý. "Phải, ta cho là vậy."
"Nhưng mà.." Annabeth cố xua tan màn sương mờ mịt trong óc. "Dấu Hiệu Athena đó, nó hoạt động như thế nào? Nó là một lọat những gợi ý, hay dấu vết Athena để lại?"
"Ta không biết. Ta không nghĩ Athena có chủ ý tạo ra Dấu Hiệu đó. Nếu cô ấy biết bức tượng của mình ở đâu, cô ấy sẽ chỉ đơn giản là nói cho cháu biết mà tìm nó. Không...Ta đoán Dấu hiệu đó giống một vệt vụn bánh mỳ tượng trưng vậy. Nó là mối liên kết giữa bức tượng và những đứa con của nữ thần. Bức tượng muốn được tìm thấy, cháu thấy đấy, nhưng nó chỉ có thể được giải thoát bởi người xứng đáng nhất."
"Và trong suốt hàng ngàn năm," Annabeth nói, "không ai làm được việc đó."
"Khoan đã," Piper nói. "Chúng ta đang nói về bức tượng nào thế?"
Nữ thần cười. "Ồ, ta chắc là Annabeth có thể cung cấp đầy đủ thông tin cho con. Dù gì thì, manh mối mà các con cần đang ở rất gần: một tấm bản đồ tổng hợp, được truyền lại từ những người con của Athena vào năm 1861 - một kí ức bắt đầu trên hành trình của các con, ngay khi các con tới Rome. Nhưng như cháu đã nói, Annabeth Chase, chưa từng có ai theo được Dấu Hiệu Athena tới cùng. Ở đó, cháu sẽ phải đương đầu với nỗi sợ hãi lớn nhất đời cháu - nỗi sợ của tất cả con cái Athena. Và dù cháu có sống sót, cháu sẽ làm gì với phần thưởng của cháu? Cho chiến tranh hay cho hòa bình?"
Annabeth mừng vì có chiếc khăn trải bàn, vì dưới mặt bàn, chân cô đang run rẩy. "Tấm bản đồ này," cô hỏi, "nó ở đâu ạ?"
"Mọi người!" Hazel chỉ lên bầu trời. Bay vòng vòng trên hàng cọ lùn là hai con đại bàng lớn. Ở trên cao, một chiếc chiến xa bay được kéo bởi đám pegasus đang ầm ầm lao xuống. Rõ ràng là kế đánh lạc hướng bằng cái bàn Buford không có hiệu quả - ít ra cũng chả hiệu quả được lâu.
Aphrodite phết bơ lên một cái bánh nướng xốp như thể bà ta có toàn bộ thời gian trên thế giới.

"Ồ, tấm bản đồ ở trong đồn Sumter, dĩ nhiên rồi." Bà chỉ con dao phết bơ về phía hòn đảo ngoài bến cảng. "Có vẻ như những người La Mã đã đến nơi để ngăn các con. Ta mà là các con thì ta sẽ khẩn trương về tàu. Các con có muốn một ít bánh mang về không?"

Fancy Cross Page Divider


[1] White Point Garden - Một khu vườn ở gần càng Charleston.
[2] Colonial mansion-biệt thự theo lối kiến trúc thời thuộc địa: Có nhiều kiểu kiến trúc khác nhau của nhiều thời kỳ thuộc địa khác nhau, ở đây không nói rõ là thời kỳ nào, nhưng theo những thông tin mà mình tìm hiểu được thì có lẽ những ngôi biệt thự được nhắc tới ở đây thuộc lối kiến trúc Georgian-lối kiến trúc phổ biến của thời thuộc địa vua George. Đặc trưng của lối kiến trúc này là nhà được xây bằng gạch kiên cố với cột gỗ, thường có một phòng khách, một phòng ăn tiêu chuẩn, đôi khi có cả một phòng sinh hoạt gia đình, và các phòng ngủ được đặt trên tầng hai.
nhà
[3] pavillion- đình hóng mát, chỉ gồm cột và mái che, thường được xây theo hình bát giác, bên trong thường có bàn và ghế đá để ngồi ngắm cảnh, giống mấy cái đình thủy tạ của Trung Quốc.
Đình hóng mát vườn White Point
vườn
[4] gazebo-vọng lâu, cũng giống như đình hóng mát, là chỗ để ngồi ngắm cảnh, 2 nơi nhắc đến trong truyện là 1, chỉ nhiều tên gọi khác nhau thôi
[5] Scone: bánh nướng làm từ bột mì hoặc bột cháo yến mạch, thường được ăn khi uống trà.
bánh
[6] peacock chair: loại ghế có phần lưng tựa xòe ra giống như đuôi công, thường được làm từ cây liễu gai.
ghế con công
[7] Trận đồn Sumter là một cuộc pháo kích đã bức hàng đồn quân sự Sumter, là trận đánh đầu tiên chính thức mở màn cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Sau khi 7 tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ tuyên bố ly khai tách khỏi Liên bang, Nam Carolina đã yêu cầu quân đội miền Bắc rút khỏi các căn cứ của mình tại cảng Charleston. Ngày 26 tháng 12 năm 1860, thiếu tá miền Bắc Robert Anderson đã bí mật dời bộ chỉ huy của mình từ đồn Moultrie vốn không thể phòng thủ tại thị trấn Sullivan's Island đến đồn Sumter, một pháo đài trọng yếu kiểm soát lối ra vào cảng Charleston. Tổng thống James Buchanan đã cố gắng tăng viện và tiếp tế cho Anderson bằng con tàu buôn không vũ trang mang tên Ngôi sao miền Tây, nhưng thất bại khi tàu này bị các khẩu đội pháo binh bờ biển miền Nam tấn công vào ngày 9 tháng 1 năm 1861. Chính quyền Nam Carolina sau đó đã chiếm đóng tất cả các căn cứ của Liên bang trong khu vực Charleston, ngoại trừ đồn Sumter.
[8] string quartet - dàn tứ tấu dây: một dàn nhạc gồm bốn nhạc cụ thuộc bộ dây, thường bao gồm hai violin, một viola và một cello.
Holmes String Quartet
[9] Bellona, nữ thần chiến tranh La Mã, là một vị thần quan trọng với người La Mã, cai quản chính sách đối ngoại với các nước khác trong chiến tranh. Nữ thần này rất thân thiết với Mars-nam thần chiến tranh, thường được biết đến như người đồng hành của Mars. Bà được cho là vợ, con gái hoặc người đánh chiến xa cho Mars, nhưng thường được gọi là em gái song sinh của vị thần chiến tranh này hơn.
bellona
[10] Mithdras- thần của các chiến binh La Mã, là một vị thần Ba Tư được người Hy Lạp tiếp nhận nhưng lại có đền thờ chính ở Rome. Những người lính trong các binh đoàn thành Rome rất tôn sùng vị thần này. Vị thần này được sinh ra từ đá, cầm một con dao găm và một ngọn đuốc, nổi tiếng vì đã giết một con bò thiêng.
Mithra_sacrifiant_le_Taureau-005

Wednesday, May 8, 2013

The Mark of Athena _ Chương 17

The Mark of Athena


Dấu hiệu Athena


Chương 17


Annabeth


anbfr



ANNABETH ĐANG CỐ GẮNG LÀM HAZEL VUI LÊN, bằng cách giải trí với những khoảnh-khắc-óc-tảo-biển của Percy ngay khi Frank đột ngột xuất hiện ở đại sảnh và xộc vào khoang cô.

“Leo đâu?” cậu thở hổn hển. “Nhanh lên! Nhanh lên!”

Cả hai cô gái chạy đi thật nhanh.

“Percy đâu?” Annabeth hỏi. “Cả thần rừng nữa?”

Frank vịn đầu gối, cố gắng để thở. Quần áo của cậu vừa cứng vừa ẩm ướt, giống như chúng vừa được tắm trong tinh bột nguyên chất. “Ở trên boong. Họ vẫn ổn. Nhưng chúng ta đang bị theo dõi.”

Annabeth vọt qua cậu và vội vàng chạy một mạch lên hết ba tầng cầu thang. Hazel thở hổn hển chạy theo sau cô và Frank. Percy với Hedge nằm trên boong, trông họ vô cùng mệt mỏi và kiệt sức. Đôi giày của Hedge đã mất. Ông đang nhìn lên trời nhe răng cười, trong miệng vẫn lẩm bẩm “Tuyệt vời. Thật tuyệt vời.” Trên người Percy chi chít những vết cắt và vết xước, như thể cậu mới nhảy qua cửa sổ. Cậu không nói gì, nhưng cậu nắm tay Annabeth yếu ớt như muốn nói Luôn ở bên cạnh cậu, ngay cả khi thế giới này ngừng quay.

Leo, Piper và Jason, những người đang dùng bữa ở đại sảnh, chạy vội lên cầu thang. “Chuyện gì? Có chuyện gì?” Leo kêu gào, trên tay cậu vẫn cầm một miếng sandwich phô mai nướng đang ăn dở. “Các cậu thậm chí không cho tớ một giờ nghỉ trưa sao? Đã có chuyện gì vậy?”

“Bị theo dõi.” Frank hét lại.

“Bị theo dõi bởi cái gì?” Jason hỏi.

“Tớ không biết.” Frank hổn hển nói. “Cá voi? Quái vật biển? Có lẽ là Kate và Porky!”

Annabeth thật sự muốn bóp cổ cậu trai này, nhưng cô vẫn không chắc bàn tay mình có thể vừa vặn với cái cổ dày cộm của cậu ta không. “Việc đấy hoàn toàn vô nghĩa. Leo, tốt nhất cậu nên đưa chúng ta ra khỏi đây.”

Leo kẹp miếng sandwich giữa hai hàm răng, làm điệu bộ như một cướp biển và vận hành bánh lái.

Không lâu sau, Argo II đã bay lên bầu trời. Annabeth giữ vị trí đuôi tàu. Cô không thấy bất cứ dấu hiệu nào của việc bị theo dõi bởi cá voi hay thứ gì khác, nhưng Percy, Frank và Hedge cũng bắt đầu hồi phục khi đường chân trời Atlanta chỉ còn là một vệt mờ ở phía xa xa.

“Charleston.” Percy nói khi đi khập khiễng quanh boong tàu như một ông lão. Cậu có vẻ run rẩy. “Hướng tới Charleston.”

“Charleston?” Jason nhắc lại cái tên kia như nó đã đem lại cho cậu những kí ức không vui. “Chính xác thì cậu đã tìm thấy gì ở Atlanta?”

Frank mở ba lô và bắt đầu lấy ra mấy món quà lưu niệm. “Một ít mứt đào. Mấy cái áo thun. Một quả cầu tuyết. Và, ừm, những cái khóa tay không-thực-sự-là-khóa-tay-Trung-Quốc.”

Annabeth buộc mình phải giữ bình tĩnh. “Tại sao cậu không bắt đầu phần đầu của câu chuyện trước và để việc cái ba lô của cậu qua một bên?”

Họ tụ tập ở sân lái để Leo có thể nghe được cuộc trò chuyện khi đang lái. Percy và Frank lần lượt kể những chuyện đã xảy ra ở thủy cung Georgia, HLV Hedge đôi khi cũng xen vào: “Thật tuyệt vời!” hoặc “Sau đó tôi đã đá vào đầu cô ta!”

Ít nhất là huấn luyện viên dường như đã quên mất việc cô với Percy ngủ quên trong chuồng ngựa đêm hôm trước. Nhưng xét đến câu chuyện của Percy thì Annabeth có một vấn đề tồi tệ hơn để lo lắng thay vì chuyện bị cấm túc.

Khi Percy giải thích về những sinh vật biển bị giam cầm ở thủy cung, cô hiểu được tại sao cậu lại lo lắng đến thế.

“Điều đó thật khủng khiếp.” Cô nói. “Chúng ta cần giúp đỡ chúng.”

“Chúng ta sẽ làm,” Percy hứa. “Vào đúng thời điểm. Nhưng chúng ta phải tìm ra cách. Tớ muốn...” Cậu lắc đầu. “Đừng bận tâm. Trước hết chúng ta phải đối phó với mớ tiền thưởng truy nã chúng ta.”

HLV Hedge có vẻ như không còn hứng thú với cuộc đối thoại – có lẽ vì nó không còn nói về ông – và lang thang đến mũi tàu, luyện tập mấy cú đá vòng cầu[1] rồi tự khen ngợi kĩ thuật của mình.

Annabeth nắm chặt chuôi dao găm của mình. “Treo thưởng truy nã chúng ta sao...cứ như thể chúng ta không đủ thu hút quái vật vậy.”

“Chúng ta sẽ có áp phích truy nã sao?” Leo hỏi. “Và chúng có tiền thưởng cho chúng ta, như phân chia bảng giá?”

Hazel nhăn mũi. “Anh đang nói gì vậy?”

“Chỉ là tò mò không biết anh đáng giá bao nhiêu,” Leo nói. “Ý tớ là, tớ hiểu mình không đáng giá như Percy hay Jason, có lẽ...nhưng không biết tớ có giá trị như hai Frank, hay ba Frank không?”

“Này.” Frank phàn nàn.

“Thôi đi,” Annabeth ra lệnh. “Ít nhất chúng ta biết bước tiếp theo là đến Charleston, để tìm bản đồ.”

Piper dựa vào tấm bảng điều khiển. Cô tết tóc bằng lông vũ trắng hôm nay, nó trông thích hợp với mái tóc nâu sẫm của cô. Annabeth tự hỏi không biết làm sao cô có thời gian để làm thứ đó. Annabeth chỉ có thể nhớ đến chải tóc mà thôi.

“Tấm bản đồ,” Piper nói. “Nhưng bản đồ ?”

“Dấu hiệu Athena.” Percy cẩn thận nhìn Annabeth như thể cậu sợ mình đi quá giới hạn. Cô trưng ra một vẻ nặng nề Tớ không muốn nói đến nó.

Mặc kệ nó là gì,” cậu tiếp tục. “Chúng ta biết nó dẫn đến một cái gì đó quan trọng ở Rome, cái mà có thể hàn gắn được sự rạn nứt giữa người La Mã và người Hy Lạp.”

Tai ương của lũ khổng lồ.” Hazel thêm vào.

Percy gật đầu “Và trong giấc mơ của tớ, hai gã khổng lồ song sinh đã nói điều gì đó về một bức tượng.”

“Ừm...” Frank lắc cái khóa tay không-thực-sự-là-khóa-tay-Trung-Quốc giữa mấy ngón tay cậu. “Theo như lời Phorcys, chúng ta sẽ điên đầu để tìm nó. Nhưng nócái gì?”

Mọi người đều nhìn Annabeth. Da đầu của cô râm ran như thể những suy nghĩ trong đầu của cô đang có khuynh hướng nhảy ra ngoài: một bức tượng...Athena...Hy Lạp và La Mã, cơn ác mộng của cô và cuộc tranh luận với mẹ cô. Cô đã nhìn thấy các mảnh ghép được ghép lại với nhau như thế nào, nhưng cô không thể tin nó lại là thật. Câu trả lời quá lớn, quá quan trọng và thật đáng sợ.

Cô nhận thấy Jason đang quan sát mình như cậu biết chính xác những gì cô đang nghĩ và cũng chẳng ưa thích nó. Cô không thể không tự hỏi: Tại sao cậu luôn làm cô cảm thấy lo lắng? Liệu cậu có thực sự đứng về phía cô? Hay đó chỉ là lời của mẹ cô nói...

“T-tớ sắp có câu trả lời,” Cô nói. “Tớ sẽ biết nhiều hơn nếu chúng ta tìm thấy tấm bản đồ. Jason, cách cậu gọi tên Charleston...cậu từng đến đó sao?”

Jason lo lắng liếc nhìn Piper, mặc dù Annabeth không chắc chắn tại sao. “Phải.” Cậu thừa nhận. “Reyna và tớ đã có một nhiệm vụ ở đó khoảng một năm trước. Chúng tớ đã thu hồi được vũ khí Vàng Hoàng Gia từ C.S.S Hunley.”

“Cái gì?” Piper hỏi.

“Wow!” Leo nói. “Đó là con tàu ngầm quân sự thành công đầu tiên. Từ cuộc Nội chiến. Tớ luôn muốn được nhìn thấy nó.”

“Nó được thiết kế bởi các á thần La Mã,” Jason nói. “Nó cất giữ một ngư lôi bí mật bằng Vàng Hoàng Gia – cho đến khi bọn tớ tìm thấy chúng và đem về trại Jupiter.”

Hazel khoanh tay lại. “Vậy là người La Mã đã chiến đấu ở phe Liên Minh. Là một cô gái có bà ngoại nô lệ, em chỉ có thể nói...chẳng hay ho gì cả không?”

Jason đưa tay lên trước mặt, lật lòng bàn tay lên. “Bản thân anh cũng không hiểu rõ lắm. Nhưng không phải toàn bộ người Hy Lạp và La Mã đều đứng về hai phe khác nhau. Nhưng, đúng vậy. Thật không hay ho gì. Đôi khi các á thần có lựa chọn sai lầm.” Cậu lúng túng nhìn Hazel. “Như chúng ta đôi khi cũng quá đa nghi. Và chúng ta đã nói mà không suy nghĩ.”

Hazel nhìn cậu. Từ từ cô nhận ra cậu đang xin lỗi mình.

Jason huých khuỷu tay vào người Leo.

“Au.” Leo hét lên. “Ý tớ là, ừm...đúng...lựa chọn sai lầm. Như là khi không tin tưởng anh em của bạn bè, những người mà, các cậu biết đấy, cần được giải cứu. Giả sử là thế.”

Hazel bĩu môi. “Được thôi. Quay trở lại với Charleston. Anh đã nói là chúng ta nên kiểm tra lại con tàu ngầm kia phải không?”

Jason nhún vai. “À...anh nghĩ chúng ta nên tìm kiếm hai địa điểm ở Charleston. Một là ở bảo tàng, nơi họ giữ Hunley__một trong số chúng. Nó chứa rất nhiều tàn tích từ hồi Nội chiến. Bản đồ có thể được giấu ở một trong số đó. Tớ biết cách bố trí. Tớ có thể dẫn một nhóm vào bên trong.”

“Tớ sẽ đi,” Leo nói. “Nghe có vẻ hay đấy.”

Jason gật đầu. Cậu quay sang nhìn Frank, người đang cố sức kéo mấy ngón tay của mình ra khỏi cái khóa tay Trung Quốc. “Cậu nên đi cùng, Frank. Chúng tớ cần cậu.”

Frank ngạc nhiên. “Tại sao? Có vẻ như tớ đã làm không tốt lắm khi ở thủy cung.”

“Cậu đã làm rất tốt.” Percy cam đoan với cậu. “Phải cần đến ba người chúng ta mới có thể đập vỡ tấm kính.”

“Hơn nữa, cậu là con trai thần Mars,” Jason nói. “Hồn ma của những kẻ bại trận phải phục tùng cậu. Và bảo tàng ở Charleston có vô số hồn ma quân Liên Minh. Chúng tớ cần cậu để chế ngự chúng.”

Frank nuốt nước bọt. Annabeth nhớ đến lời kể của Percy về việc Frank hóa thành con cá vàng khổng lồ và cô cố gắng không bật cười. Cô sẽ không bao giờ có thể nhìn anh chàng to con này mà không nhớ tới loài cá vàng.

“Thôi được.” Frank dịu lại.” Đồng ý.” Cậu cau mày nhìn vào mấy ngón tay của mình và cố gắng kéo chúng ra khỏi cái khóa tay. “Ừm, làm thế nào các cậu___?”

Leo cười khúc khích “Này cậu trai, chưa từng thấy chúng trước đây sao? Có một mẹo đơn giản để lấy nó ra.”

Frank kéo mạnh lần nữa nhưng không thành công. Thậm chí ngay cả Hazel cũng cố nhịn cười.

Frank nhăn mặt như đang cố gắng tập trung. Đột nhiên cậu biến mất. Trên boong nơi cậu đứng, một con cự đà xanh[2] cúi người bên cạnh những cái khóa tay Trung Quốc.

“Làm tốt lắm, Frank Trương,” Leo nói cộc lốc, rồi làm theo điệu bộ của bác Chiron. “Đó là cách người ta giải quyết cái khóa tay Trung Quốc. Họ biến thành những con cự đà.”

Mọi người đều bật cười. Frank hóa lại hình người, nhặt mấy cái khóa tay lên rồi nhét vào ba lô. Cậu nở nụ cười ngượng ngùng.

“Dù sao,” Frank nói, lo lắng thay đổi chủ đề. “Bảo tàng là một nơi để tìm kiếm. Nhưng, ừm, Jason, cậu nói có tận hai chỗ cơ mà.”

Nụ cười  Jason mờ đi. Dù cậu đang nghĩ đến cái gì, Annabeth đều có thể nói rằng nó hoàn toàn không hay ho cho mấy.

“Phải,” Cậu nói. “Nơi đó, vào lúc tớ đến...cùng Reyna...” Cậu liếc nhìn Piper, sau đó nhanh chóng nói tiếp. “Bọn tớ đã nhìn thấy thứ gì đó trong công viên. Một bóng ma hay là một dạng linh hồn, kiểu như một người phụ nữ miền Nam từ thời Nội chiến, phát sáng và trôi lềnh bềnh. Bọn tớ đã cố tiếp cận, nhưng nó biến mất mỗi khi bọn tớ đến gần. Sau đó Reyna có cảm giác – cô ấy nói cô ấy nên thử một mình. Có lẽ nó chỉ có thể trò chuyện với các cô gái. Cô ấy một mình đi đến chổ linh hồn kia và đúng thật, nó đã nói chuyện với cô ấy.”

Mọi người đợi chờ.

“Nó đã nói gì?” Annabeth hỏi.

“Reyna không kể tớ biết,” Jason thừa nhận. “Nhưng nó chắc hẳn rất quan trọng. Cô ấy dường như...đã run sợ. Có lẽ cô ấy nhận được một lời tiên tri hoặc tin xấu. Reyna không bao giờ tỏ ra như thế trước mặt tớ sau lần đó nữa.”

Annabeth cân nhắc. Sau những trải nghiệm của họ với các eidolon, cô không thích ý nghĩ tiếp cận một con ma, đặc biệt là khi nó mang lại cho người ta tin xấu hay những lời tiên tri. Mặt khác, mẹ cô là nữ thần của  tri thức và tri thức là một thứ vũ khí quyền lực nhất. Annabeth không thể từ chối các nguồn thông tin khả thi.

“Cuộc phiêu lưu của con gái, sau đó,” Annabeth nói. “Piper và Hazel có thể đi cùng tớ.”

Cả hai cùng gật đầu, mặc dù Hazel trông khá lo lắng. Không nghi ngờ gì khi cuộc sống ở Địa ngục cho cô đủ những trải nghiệm về các hồn ma ở cả hai cuộc đời. Mắt Piper lóe lên bướng bỉnh, như mọi thứ Reyna có thể làm thì cô cũng làm được.

Annabeth nhận ra sáu người trong số họ đã có mặt trong hai nhiệm vụ, nên điều đó có nghĩa là Percy sẽ phải ở lại trên tàu một mình với HLV Hedge, đó không phải việc mà một cô bạn gái chu đáo nên làm. Cô cũng không muốn phải rời tầm mắt khỏi Percy lần nữa__sau khi họ đã xa nhau hàng tháng trời. Mặt khác, Percy trông có vẻ rối bời sau khi thấy những sinh vật biển bị giam cầm, cô nghĩ có lẽ cậu nên nghỉ ngơi. Cô bắt gặp ánh mắt cậu, im lặng hỏi cậu. Cậu gật đầu như muốn nói, Được mà. Mọi chuyện sẽ ổn thôi.

“Vậy, mọi chuyện đã ổn thỏa.” Annabeth quay sang Leo, người đang nghiên cứu giao điện điều khiển của mình, lắng nghe Fetus kêu cót két và nhấn vào hệ thống liên lạc. “Leo, còn bao lâu nữa thì chúng ta đến Charleston?”

“Câu hỏi hay đấy,” Leo thì thầm. “Fetus đã phát hiện ra một nhóm lớn đại bàng đang theo sau chúng ta – là loại có rada tầm xa, nhưng chúng ta vẫn chưa rơi vào tầm nhìn của chúng.”

Piper dựa vào bàn điều khiển. “Cậu có chắc đó là người La Mã không?”

Leo đảo mắt. “Không, Pipes. Chúng có thể là nhóm các con đại bàng khổng lồ tình cờ bay theo đội hình hoàn hảo. Ôi trời, dĩ nhiên đó là người La Mã! Tớ nghĩ chúng ta nên quay tàu lại và đánh nhau...”

“Đó là một ý tồi.” Jason nói, “và không tháo gỡ được bất cứ nghi ngờ nào về việc chúng ta là kẻ thù của người La Mã.”

“Hoặc tớ có ýn khác,” Leo nói. “Nếu chúng ta đi thẳng đến Charleston thì sẽ mất vài tiếng đồng hồ. Nhưng đám đại bàng kia sẽ bắt kịp chúng ta và mọi chuyện sẽ trở nên rắc rối. Thay vì vậy, chúng ta nên nhử mồi để bẫy chúng. Còn chúng ta sẽ đi đường vòng đến Charleston và có lẽ đến đó vào sáng hôm sau__”

Hazel định kháng nghị, nhưng Leo đã giơ tay ngăn lại. “Anh biết. Anh biết. Nico đang gặp nguy hiểm và chúng ta phải nhanh lên.”

“Hôm nay là ngày 27 tháng 6,” Hazel nói. “Sau hôm nay thì còn bốn hôm nữa. Nó sẽ chết.”

“Anh biết! Nhưng chỉ có cách này để cắt đuôi bọn La Mã. Chúng ta vẫn còn đủ thời gian để đến Rome.”

Hazel giận dữ. “Khi anh nói vẫn còn đủ...”

Leo nhún khinh thường. “Vậy chỉ còn vừa đủ thì thế nào?”

Hazel úp tay lên mặt và đếm đến ba. “Nghe có vẻ chúng ta chỉ còn cách đó.”

Annabeth quyết định coi đó như mà một dấu hiệu đèn xanh. “Được rồi, Leo. Loại mồi nhử cậu đang nói đến là gì?”

“Tớ rất vui khi cậu hỏi!” Cậu nhấn mấy cái nút trên bàn điều khiển, xoay bàn xoay và liên tục nhấn nút A trên cái điều khiển Wii. Cậu gọi qua hệ thống liên lạc, “Buford? Vui lòng báo cáo nhiệm vụ.”

Frank lùi một bước. “Còn có người khác trên thuyền sao? Buford là ai?”

Một làn hơi nước bắn ra từ cầu thang và bàn tự động của Leo trèo lên boong.

Annabeth không thấy Buford mấy trong suốt chuyến đi. Nó hầu như toàn ở phòng động cơ. (Leo khẳng định Buford có một sự say mê bí mật với động cơ.) Nó là một chiếc bàn ba chân với mặt bàn gỗ gụ. Chân đế đồng của cậu ta có nhiều ngăn kéo, bánh răng quay và một bộ các lỗ thông hơi. Buford đang mang một cái túi như bao tải thư buộc vào một chân nó. Nó ồn ào vào khoang máy và tạo âm thanh như tiếng còi xe lửa.

“Đây là Buford,” Leo giới thiệu.

“Cậu đặt tên cho đồ gỗ sao?” Frank hỏi.

Leo khịt mũi. “Cậu trai, cậu chỉ ước có được món đồ gỗ tuyệt vời đến thế là cùng. Buford, cậu đã sẵn sàng cho Chiến dịch Bàn đèn[3] chưa?”

Buford phụt hơi nước. Nó bước đến chỗ rào chắn. Mặt bàn gỗ gụ của nó chẻ thành bốn lát kéo dài ra thành các phiến gỗ. Các phiến gỗ quay và Buford cất cánh.

“Một bàn trực thăng,” Percy lẩm bẩm. “Phải thừa nhận nó thật tuyệt. Có gì trong túi đó?”

“Quần áo dơ của á thần,” Leo nói. “Tớ hy vọng cậu không phiền, Frank.”

Frank nén giận. “Cái gì?”

“Nó sẽ ngăn lũ đại bàng đánh hơi thấy chúng ta.”

“Đó là mấy cái quần duy nhất của tớ còn lại đấy.”

Leo nhún vai. “Tớ đã bảo Buford giặt chúng và gấp lại khi cậu ấy đi. Hy vọng cậu ấy sẽ làm thế.” Cậu xoa tay và nhe răng cười. “À! Tớ phải gọi hôm nay là một ngày tốt lành. Tớ sẽ tính toán lộ trình đường vòng của chúng ta. Gặp lại các cậu vào bữa tối!”

Percy đã rời đi sớm, để lại Annabeth với buổi chiều nhàn rỗi không có việc làm ngoại trừ nhìn chằm chằm vào máy tính của cô.

Tất nhiên cô mang laptop của Daedalus bên mình. Hai năm trước, cô thừa kế cái máy từ nhà phát minh vĩ đại nhất mọi thời đại và nó có những ý tưởng phát minh, những sơ đồ và biểu đồ Annabeth đang cố gắng để tìm hiểu hết. Sau hai năm, một laptop thông thường sẽ xuống cấp, nhưng Annabeth phát hiện máy tính của Daedalus vẫn còn thời hạn năm mươi năm trước khi xuống cấp. Nó có thể mở rộng ra thành một laptop với kích thước đầy đủ, thu nhỏ thành một máy tính bảng, hoặc gấp lại thành một miếng kim loại nhỏ hơn chiếc điện thoại di động. Nó hoạt động nhanh hơn bất cứ máy tính nào mà Annabeth đã từng có, có thể truy cập vào các vệ tinh hoặc chương trình phát sóng của Hephaetus-TV vệ tinh từ Đỉnh Olympus và chạy chương trình đặt-làm mà có thể làm từ bất cứ thứ gì ngoại trừ buộc dây giày. Có lẽ cũng có một ứng dụng cho việc đó, nhưng Annabeth vẫn chưa tìm ra.

Cô ngồi trên giường, sử dụng một trong những chương trình cấu hình 3-D của Daedalus để nghiên cứu mô hình đền Parthenon[4] ở Athens. Cô luôn khao khát được đến đó, cả Parthenon và Athens, bởi vì cô yêu kiến trúc và bởi vì đó là đền thờ nổi tiếng nhất của mẹ cô.

Bây giờ cô sắp thực hiện được điều đó, nếu họ còn sống tới khi đến Hy Lạp. Nhưng càng nghĩ đến dấu hiệu Athena và những truyền thuyết La Mã cổ xưa mà Reyna đã đề cập, cô càng thêm lo lắng.

Cô không muốn, nhưng cô nhớ lại cuộc tranh luận với mẹ cô. Thậm chí sau nhiều tuần, những lời ấy vẫn làm cô đau nhói.

Annabeth đã đi tàu điện ngầm trở về từ Upper East Side sau khi thăm mẹ Percy. Trong những tháng dài đằng đẵng khi Percy mất tích, Annabeth đã đi ít nhất một tuần một lần – một phần là để thông báo cho Sally Jackson và chồng của bà, Paul, về cuộc tìm kiếm và một phần bởi Annabeth với Sally cần nhau để cổ vũ tinh thần và thuyết phục người kia rằng Percy vẫn ổn.

Trải qua mùa xuân đặc biệt khó khăn. Lúc đó, Annabeth có lý do tin rằng Percy vẫn còn sống, từ kế hoạch của Hera dường như có liên quan đến việc gửi cậu đến trại La Mã, nhưng cô không thể chắc cậu đang ở đâu. Jason ít nhiều vẫn nhớ đến trại cũ của cậu, nhưng tất cả những phép màu Hy Lạp – thậm chí ngay cả các trại viên nhà Hecate – cũng không thể khẳng định Percy đang ở bất cứ đâu. Cậu dường như biến mất khỏi hành tinh. Rachel, nhà tiên tri Oracle, cũng cố gắng đọc những điều về tương lai và khi cô không thể thấy được nhiều điều, cô vẫn chắc rằng Leo cần phải hoàn thành Argo II trước khi họ liên lạc với người La Mã.

Tuy nhiên, Annabeth đã dành tất cả thời gian rảnh rỗi để tìm kiếm bất cứ tin tức nào về Percy. Cô đã thử trò chuyện cùng các tinh linh tự nhiên, đọc các truyền thuyết về Rome, lần tìm các manh mối trong máy tính xách tay của Daedalus và tốn cả trăm đồng drachma cho thông điệp Iris đến các tinh linh thiện, á thần hoặc các quái vật mà cô đã từng gặp, tất cả đều vô vọng.

Chiều hôm đó, khi trở về từ nhà Sally, Annabeth cảm thấy mệt mỏi hơn bình thường. Cô và Sally đã khóc, sau đó cố gắng vực dậy tinh thần, nhưng các dây thần kinh của họ dường như sờn đi. Cuối cùng Annabeth đã lên tàu điện ngầm Lexington Avenue đi xuống Grand Central.

Có một con đường khác để trở lại khu nội trú trường trung học của cô từ Upper East Side, nhưng Annabeth thích đến ga cuối Grand Central. Thiết kế tuyệt đẹp và không gian rộng thoáng đãng nhắc nhở cô nhớ đến đỉnh Olympus. Tòa nhà Grand làm cô cảm thấy tốt hơn_có lẽ vì ở một nơi cố định khiến cô ổn định hơn.

Cô đã qua Kẹo Ngọt Mĩ, cửa hàng kẹo ngọt nơi mẹ Percy từng làm việc và nghĩ đến việc vào trong mua một ít kẹo màu xanh thì thấy Athena nghiên cứu bản đồ tàu điện ngầm trên tường.

“Mẹ!” Annabeth không thể tin được. Cô chưa gặp mẹ mình cả tháng trời – kể từ khi Zeus đóng cửa Olympus và cấm tất việc liên lạc với các á thần.

Annabeth đã cố gắng liên lạc với mẹ mình rất nhiều lần bằng mọi cách, cầu xin chỉ dẫn, gửi đi các lời cầu nguyện trong mỗi bữa ăn ở trại. Nhưng cô không nhận được hồi đáp. Giờ Athena đã ở đây, mặc quần jeans, giày leo núi và áo sơ mi caro màu đỏ, mái tóc đen của bà đổ xuống vai. Bà mang theo ba lô và một cây gậy cuốc bộ như đã chuẩn bị cho hành trình dài.

“Ta phải về nhà,” Athena lẩm bẩm, tiếp tục nghiên cứu bản đồ. “Đường xá thật rắc rối. Ta ước gì Odysseus ở đây. Có lẽ ông ấy sẽ hiểu.”

“Mẹ!” Annabeth gọi. “Athena!”

Nữ thần quay lại. Bà dường như không nhận ra cô.

“Đó là tên ta,” nữ thần nói một cách mơ màng. “Trước kia họ cướp thành phố của ta, lấy đi danh tính của ta, khiến ta thành ra thế này.” Bà nhìn quần áo của mình một cách ghê tởm. “Ta phải về nhà.”

Annabeth bước lùi lại vì sốc. “Bà...bà là Minerva?”

“Đừng gọi ta như thế!” Đôi mắt xám của nữ thần lóe lên giận dữ. “Ta từng mang theo cây thương và tấm khiên. Ta nắm giữ chiến thắng trong lòng bàn tay. Ta đã làm được nhiều hơn thế.”

“Mẹ.” Giọng Annabeth run rẫy. “Là con, Annabeth. Con gái của mẹ.”

“Con gái của ta...” Athena lặp lại. “Phải, con ta sẽ trả thù cho ta. Chúng sẽ phải hủy diệt La Mã. Khủng khiếp, nhục nhã, hãy làm như tụi La Mã. Hera cho rằng chúng ta nên giữ hai trại ở xa nhau. Ta nói, Không, để chúng đánh nhau. Để con cái của ta tiêu diệt những kẻ xâm lược.”

Nhịp tim của Annabeth đập vào tai cô. “Người muốn thế? Nhưng người rất khôn ngoan. Người hiểu tác chiến tốt hơn bất cứ__”

“Từng là như thế!” Vị nữ thần nói. “Bị thay thế. Bị tước đoạt. Bị cướp giật như một chiến lợi phẩm và bị mang đi__xa khỏi quê hương yêu dấu. Ta đã mất quá nhiều thứ. Ta thề sẽ không bao giờ quên. Kể cả con cái của ta nữa.” Bà chú ý vào Annabeth. “Ngươi là con gái của ta?”

“Vâng.”

Nữ thần lấy thứ gì đó từ trong túi áo sơ mi – một huy hiệu lỗi mối của tàu điện ngầm – và ấn vào tay của Annabeth.

“Lần theo dấu hiệu Athena,” Vị nữ thần nói. “Trả thù cho ta.”

Annabeth nhìn vào đồng xu. Ngay lúc đó, nó biến đổi từ huy hiệu tàu điện ngầm New York thành đồng bạc drachma cổ, loại mà người Athen đã từng sử dụng. Nó có hình một con cú, con vật linh thiêng của Athena, với hình cây ôliu trên một mặt và dòng chữ Hy Lạp ở mặt bên kia.

Dấu hiệu Athena.

Vào lúc đó, Annabeth không hiễu ý nghĩa của nó. Cô không hiểu tại sao mẹ cô lại hành động như vậy. Như Minerva hay ai khác, bà không thể bối rối như vậy.

“Mẹ...” Cô cố gắng khiến giọng của mình trở nên hợp lí nhất có thể. “Percy đang mất tích. Con cần sự giúp đỡ của mẹ.” Cô bắt đầu giải thích kế hoạch Hera kết hợp hai trại để chiến đấu với Gaea và lũ khổng lồ, nhưng nữ thần chống cây gậy cuốc bộ lên nền đá cẩm thạch.

“Không bao giờ!” Bà nói. “Bất kì ai giúp La Mã đều phải bị tiêu diệt. Nếu ngươi nhập bọn với chúng, ngươi sẽ không phải là con ta. Ngươi đã làm ta thất vọng.”

“Mẹ!”

“Ta không quan tâm đến Percy này nọ gì hết. Nếu hắn đã về phe người La Mã thì cứ để hắn bị tiêu diệt. Giết hắn. Giết tất cả lũ La Mã. Tìm dấu hiệu, theo nó tìm tới tận nguồn căn. Chứng kiến người La Mã đã lăng mạ ta như thế nào và hứa là phải báo thù cho ta.”

“Athena không phải là nữ thần báo thù.” Móng tay của Annabeth đâm vào lòng bàn tay. Đồng xu trong tay cô dường như ấm hơn. “Percy là tất cả với con.”

“Và trả thù là tất cả mọi thứ đối với ta,” Nữ thần tức giận. “Ai trong chúng ta khôn ngoan hơn?”

“Mẹ có điều gì rất lạ. Chuyện gì đã xảy ra?”

“Rome có chuyện!” Nữ thần nói một cách cay đắng. “Nhìn những gì chúng đã làm xem, tạo ra một ta người La Mã. Chúng ước sao ta là thần của chúng? Rồi đây hãy bắt chúng nếm mùi đê tiện của chúng. Giết chúng, con gái.”

“Không.”

“Thế thì ngươi sẽ không còn là gì nữa.” Nữ thần quay nhìn bản đồ tàu điện ngầm. Biểu tình của bà mềm mỏng hơn và trở nên bối rối, không tập trung. “Nếu ta có thể tìm được lộ trình...đường về nhà, sau đó có lẽ__Nhưng, không. Trả thù cho ta hoặc cứ mặc ta. Ngươi không còn là con ta nữa.”

Mắt của Annabeth đau nhức. Cô đã nghĩ hàng ngàn điều kinh khủng muốn nói nhưng cô không thể. Cô đã quay người và chạy đi.

Cô đã cố vứt đồng bạc ấy đi, nhưng nó lại xuất hiện trong túi của cô, giống như thanh Thủy Triều của Percy. Không may là đồng drachma của Annabeth không có sức mạnh phép thuật__hầu như vô dụng. Nó chỉ toàn làm cô mơ thấy ác mộng và kệ cô cố gắng thế nào cũng không thoát được khỏi nó.

Giờ đây, ngồi trong khoang mình trên tàu Argo II, cô có thể cảm nhận đồng xu trở nên nóng hơn trong túi. Cô nhìn chằm chằm vào mô hình đền Parthenon trên màn hình vi tính và nghĩ đến cuộc cãi vã với Athena. Chuyện vài ngày trước xoáy vào đầu cô: Một người bạn tài giỏi sẵn sàng đợi cô tới. Không ai tìm được bức tượng đó. Con gái của trí tuệ đi một mình.

Cô lo sợ mình dường như đã hiểu được hết ý nghĩa của chúng. Cô cầu nguyện các vị thần mong mình đã sai.

Cái gõ cửa khiến cô giật mình.

Cô hy vọng người đó là Percy, nhưng thay vào đó Frank Trương thò đầu vô.

“Ừm, xin lỗi,” cậu nói. “Mình có thể_?”

Cô có chút bất ngờ khi thấy cậu, phải mất một lúc sau cô mới nhận ra cậu muốn đi vào.

“Chắc rồi,” cô nói. “Cậu vào đi.”

Cậu bước vào trong, nhìn xung quanh khoang. Chẳng có gì nhiều để xem. Trên cái bàn đặt cạnh đống sách, một tờ báo, một cây viết và một tấm ảnh bố cô đang bay với chiếc máy bay hai tầng Sopwith Camel, cười toe toét và giơ thẳng ngón cái. Annabeth thích tấm ảnh đó. Nó gợi nhớ đến quãng thời gian cô cảm thấy gần gũi ông nhất, khi ông tấn công đội quân quái vật với súng máy bắn đạn Đồng Thiên Thai chỉ để bảo vệ cô__món quà tốt đẹp nhất mà một đứa con gái mong đợi.

Treo trên tường là chiếc mũ lưỡi trai New York Yankees của cô, một món quà từ mẹ cô. Nó có khả năng khiến người đội trở nên vô hình. Từ sau cuộc cãi vã giữa cô và Athena, cái mũ mất đi phép màu của nó. Annabeth không chắc tại sao, nhưng cô vẫn luôn mang nó theo trong nhiệm vụ. Mỗi buổi sáng cô đều cố thử, hy vọng nó trở lại như cũ. Nhưng nó chỉ làm cô nhớ đến cơn thịnh nộ của mẹ mình mà thôi.

Thêm nữa, khoang của cô không cầu kì. Cô chỉ giữ cố sạch sẽ và đơn giản để giúp cô suy nghĩ tốt hơn. Percy không tin điều đó vì cô luôn làm mọi thứ hoàn hảo, nhưng như hầu hết các á thần, cô mắc chứng ADHD. Khi mọi thứ quá rối mắt trong không gian cá nhân, cô chẳng bao giờ có thể tập trung.

“Vậy...Frank,” Cô hỏi. “Tớ có thể giúp gì cho cậu?”

Trong số những người trên tàu, Frank là người mà cô chả mấy nghĩ tới là có khả năng sẽ tìm gặp cô. Cô không cảm thấy ít bối rối hơn khi cậu đỏ mặt và lôi cái khóa tay ra khỏi túi.

“Tớ không thích phải mù mờ về nó như thế này,” cậu nói khẽ. “Cậu có thể chỉ cho tớ cái mẹo không? Tớ cảm thấy không thoải mái khi hỏi người khác.”

Annabeth xử lý lời nói của cậu một cách chậm chạp. Chờ đã...Frank đang nhờ giúp đỡ? Sau đó mọi chuyện dường như sáng tỏ: dĩ nhiên, Frank đang xấu hổ. Leo đã chọc cậu khá đau. Không ai thích bị biến thành trò cười. Biểu hiện của Frank như muốn nói cậu không bao giờ muốn chuyện đó xảy ra lần nữa. Cậu muốn biết cách giải quyết, mà không cần đến giải pháp con cự đà.

Annabeth cảm thấy một chút kính phục. Frank tin cô không biến cậu thành trò hề. Hơn thế nữa, cô sẽ chỉ dẫn cho tất cả những ai muốn tìm hiểu kiến thức – thậm chí những thứ đơn giản như khóa tay Trung Quốc.

Cô vỗ nhẹ lên chiếc giường cạnh mình. “Tất nhiên rồi. Ngồi đi.”

Frank ngồi ngay sát mép nệm, như chuẩn bị cho cuộc đào thoát chóng vánh. Annabeth cầm lấy cái khóa tay và đặt chúng cạnh máy tính mình.

Cô đánh dãy kí tự mệnh lệnh việc quyét bằng tia hồng ngoại. Lát sau, một mô hình 3-D về khóa tay Trung Quốc xuất hiện trên màn hình. Cô dịch chuyển laptop để Frank có thể nhìn thấy.

“Cậu làm thế nào vậy?” Cậu ngạc nhiên.

“Công nghệ Hy Lạp tiên tiến cổ xưa,” cô nói. “Được rồi, nhìn này. Cấu trúc là một bím hai trục hình trụ, vì thế nó có khả năng đàn hồi xuất sắc.” Cô thao tác hình ảnh để nó ép vào trong rồi dãn ra ngoài như cây đàn xếp. “Khi cậu cho các ngón tay của cậu vào trong, nó sẽ lơi lỏng ra. Nhưng khi cậu cố rút ra, chu vi của nó sẽ co lại như cái bím bện lại và thắt chặt. Sẽ không có cách nào tháo ra nếu cứ vật lộn với nó.”

Frank ngây ngô nhìn chằm chằm vào cô. “Nhưng tháo ra thế nào?”

“À...” Cô cho cậu thấy một vài phép toán – làm sao cái khóa tay có thể chịu đựng được một lực mạnh thế được hả, là do chất liệu được sử dụng trong các mối bện. “Khá tuyệt cho một cấu trúc dệt đúng không? Các bác sĩ dùng nó trong phương pháp kéo giãn chân tay và co cơ điện_”

“Ừ, nhưng mà tháo ra?”

Annabeth cười. “Cậu không thể chiến đấu chống lại cái khóa tay. Cậu chỉ cần nhấn ngón tay vào trong, không phải ra ngoài. Các mối bện sẽ lỏng ra.”

“Ồ.” Frank làm thử. Thành công. “Cám ơn, nhưng...cậu có thể chỉ cho tớ về cái khóa tay mà không cần chương trình 3-D và các phép toán không?”

Annabeth do dự. Đôi khí sự khôn ngoan đến từ những thứ khác lạ, thậm chí đến từ cậu thiếu niên cá vàng khổng lồ này. “Tớ nghĩ là cậu đúng. Ngốc thật. Tớ cũng sẽ học theo.”

Frank thử mở cái khóa tay một lần nữa. “Thật dễ khi cậu biết cách giải quyết.”

“Hầu hết các loại bẫy tốt nhất đều khá đơn giản,” Annabeth nói. “Cậu chỉ cần suy nghĩ về nó và mong các nạn nhân của cậu thì không.”

Frank gật đầu. Cậu dường như không có ý định rời đi.

“Cậu biết không,” Annabeth nói, “Leo không cố ý cợt nhả thế đâu. Cậu ấy chỉ hơi to mồm thôi. Khi có người làm cậu ấy lo , cậu ấy sử dụng khiếu hài hước như một kiểu phòng vệ.”

Frank nhíu mày. “Tại sao tớ lại làm cậu ấy lo lắng?”

“Cậu to gấp đôi cậu ấy. Cậu có thể hóa rồng.” Và Hazel thích cậu, Annabeth nghĩ, mặc dù cô không nói ra.

Frank có vẻ không bị thuyết phục. “Leo có thể triệu hồi lửa.” Cậu xoắn cái khóa tay. “Annabeth...có khi, cậu có thể giúp mình giải quyết những vấn đề khác không đơn giản thế này thôi không? Tớ có...Tớ đoán cậu gọi nó là ‘gót chân’ Achilles.”

Annabeth cảm giác như cô vừa uống socola nóng của người La Mã. Cô chưa bao giờ cảm nhận được sự ấm áp và mơ hồ nhưng Frank đã cho cô cảm giác đó. Cậu là một con gấu bông siêu lớn. Cô có thể hiểu tại sao Hazel thích cậu. “Tớ rất sẵn lòng,” cô nói. “Có ai khác biết về chuyện ‘gót chân’ Achilles không?”

“Percy và Hazel,” Cậu nói. “Không còn ai khác. Percy...cậu ấy gã trai tốt. Tớ sẽ theo cậu ấy đến bất cứ nơi nào. Tớ nghĩ là cậu nên biết.”

Annabeth vỗ nhẹ vào cánh tay cậu. “Percy luôn biết cách để chọn những người bạn tốt. Như cậu. Nhưng, Frank, cậu có thể tin tưởng bất cứ ai trên tàu. Kể cả Leo. Chúng ta là một đội. Chúng ta phải tin tưởng nhau.”

“Tớ - tớ cũng nghĩ thế.”

“Vậy điểm yếu mà cậu lo lắng là gì?”

Tiếng chuông báo bữa tối reo vang và Frank nhảy dựng lên.

“Có lẽ...có lẽ lát nữa,” cậu nói. “Thật khó để nói về nó. Nhưng cám ơn, Annabeth.” Cậu cầm cái khóa tay Trung Quốc lên. “Cứ nghĩ thật đơn giản thế thôi.”

Fancy Cross Page Divider


[1] Đã có ở chương trước, là roundhouse kick
[2] Cự đà xanh: Cự đà xanh có tên khoa học là Cyclura lewisi, là phân loài của thằn lằn Iguana Cuba. Vì thế, chúng còn được gọi là Iguana xanh. Chúng là loài đặc hữu của đảo Grand Cayman, Vương quốc Anh.Loài cự đà xanh có trọng lượng trưởng thành 15kg. Chiều dài cơ thể 1,5m. Tuổi thọ của chúng khá lớn, đến 60 năm. Đã từng ghi nhận một con cự đà sống tới 69 tuổi.Vào năm 2001, các nhà khoa học thống kê và giật mình khi chỉ phát hiện được 5 cá thể cự đà xanh trên hòn đảo xinh đẹp này. Loài cự đà xanh có nguy cơ biến mất khỏi trái đất trong tương lai gần. Khi đó, nhiều nhà khoa học đã đưa ra cảnh báo rằng, chúng sẽ biến mất khỏi trái đất vào thập kỷ thứ 2 của thế kỷ 21.
cu da xanh
[3] End Table, bàn nhỏ để đèn ngủ, sách báo, đồ uống, đồ ăn nhẹ, điểm tâm
den ban
[4] Parthenon
Parthenon (tiếng Hy Lạp: Παρθενών) là một ngôi đền thờ thần Athena, được xây dựng vào thế kỷ 5 trước Công nguyên ở Acropolis. Đây là công trình xây dựng nổi tiếng nhất còn lại của Hy Lạp cổ đại, và đã được ca ngợi như là thành tựu của kiến trúc Hy Lạp. Các điêu khắc trang trí của ngôi đền bằng từ đá cẩm thạch (marble) trắng, được coi như là đỉnh cao của nghệ thuật Ai Cập cổ đại. Đền Parthenon là biểu tượng của sự kết thúc Hy Lạp cổ đại và của nền dân chủ Athena, và được đánh giá như là một trong những công trình văn hóa vĩ đại nhất thế giới.
ÎÄ»¯Ö®Â㺵ØÀíÈËÎľ°¹Û±ÚÖ½¾«Ñ¡ µÚÁù¼­